51

Lời tiên tri về Ba-by-lôn

1 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ khiến gió hủy diệt dấy lên nghịch cùng Ba-by-lôn, nghịch cùng những người ở trong Líp-Ca-mai. 2 Ta sẽ sai những người dân ngoại đến sàng sảy Ba-by-lôn, và làm tiêu hao đất nó; vì đến ngày khốn nạn, chúng nó sẽ đến trên Ba-by-lôn khắp tư bề. 3 Khá giương cung cự lại kẻ cầm cung, và cự lại kẻ mặc áo giáp đi xúng xính! Chớ chừa những lính chiến trai trẻ của Ba-by-lôn; hãy diệt trọn hết cả đạo binh nó. 4 Chúng nó sẽ bị giết, ngã xuống trong đất người Canh-đê, và bị đâm trong các đường phố nó.
5 Y-sơ-ra-ên cùng Giu-đa chẳng bị lìa bỏ bởi Đức Chúa Trời mình, bởi Đức Giê-hô-va vạn quân; dầu đất chúng nó đầy tội lỗi nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 6 Hãy trốn khỏi giữa Ba-by-lôn, ai nấy khá thoát mạng mình; chớ vì tội nó mà bị chết mất. Vì ấy là kỳ trả thù của Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ báo cho nó. 7 Ba-by-lôn vốn là một cái chén vàng trong tay Đức Giê-hô-va, làm cho say cả đất; các nước đã uống rượu nó, vì đó mà trở nên điên cuồng. 8 Ba-by-lôn thình lình bị đổ xuống và tan nát. Hãy vì nó than khóc! Hãy lấy nhũ hương chữa đau đớn nó, hoặc nó được chữa lành chăng? --- 9 Chúng ta vẫn muốn chữa lành cho Ba-by-lôn, song nó không được chữa. Hãy lìa bỏ nó, ai nấy trở về xứ mình; vì sự phán xét nó thấu đến tận trời và lên tận vòng khung. 10 Đức Giê-hô-va đã tỏ ra sự công bình chúng ta. Hãy đến, rao ra trong Si-ôn công việc của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta.
11 Hãy chuốc tên, cầm thuẫn cho chắc! Đức Giê-hô-va đã giục lòng các vua ở Mê-đi, vì Ngài đã định ý hủy diệt Ba-by-lôn. Vì đây là sự báo thù của Đức Giê-hô-va, Ngài trả thù về đền thờ của Ngài. 12 Hãy dựng cờ xí đánh các tường thành Ba-by-lôn! Khá thêm lính giữ, đặt vọng canh, sắp quân phục! Vì Đức Giê-hô-va đã định ý và đã làm ra sự Ngài đã phán về dân cư Ba-by-lôn. 13 Hỡi thành giàu có của báu, ở trên nhiều dòng nước kia, sự cuối cùng ngươi đã đến, cái lượng sự tham lam ngươi đã đầy! 14 Đức Giê-hô-va vạn quân đã chỉ mình mà thề rằng: Ta chắc sẽ làm cho ngươi đầy người ta, đông như cào cào; chúng nó sẽ trổi tiếng kêu la nghịch cùng ngươi
15 Chính Ngài là Đấng đã lấy quyền năng mình dựng nên đất, lấy sự khôn ngoan mình lập thành thế gian, lấy sự sáng suốt mình giương các từng trời ra. 16 Nghe tiếng Ngài, những nước trong các từng trời om sòm. Ngài khiến hơi nước lên từ các đầu cùng đất, khiến chớp theo mưa, từ trong kho tàng mình phát ra gió. 17 Vậy nên phàm người đều mê muội, lảng trí; thợ vàng đều xấu hổ về tượng đúc của mình; vì tượng đúc nó chỉ là giả dối, chẳng có hơi thở ở trong. 18 Những thần tượng chỉ là hư không, là việc phỉnh dối; đến ngày thăm phạt sẽ diệt mất cả. 19 Nhưng cơ nghiệp của Gia-cốp thì chẳng giống như chúng nó, vì chính Ngài là Đấng đã tạo nên mọi vật, còn Y-sơ-ra-ên là chi phái của cơ nghiệp Ngài. Danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân.
20 Ngươi làm búa và khí giới đánh giặc cho ta; ta sẽ dùng ngươi phá tan các dân và diệt các nước. 21 Ta sẽ dùng ngươi phá tan ngựa và người cưỡi ngựa, phá tan xe và kẻ cỡi xe. 22 Ta sẽ dùng ngươi phá tan đàn ông, đàn bà, già và trẻ; ta sẽ dùng ngươi phá tan trai trẻ và gái đồng trinh. 23 Ta sẽ dùng ngươi phá tan kẻ chăn và bầy nó, kẻ cày ruộng và đôi bò nó. Ta sẽ dùng ngươi phá tan các quan cai trị và các quan đề hình. 24 Nhưng trước mắt các ngươi, ta sẽ báo cho Ba-by-lôn và mọi dân cư Canh-đê phàm điều ác chi mà chúng nó đã làm tại Si-ôn, Đức Giê-hô-va phán vậy.
25 Đức Giê-hô-va phán: Hỡi núi hay hủy diệt, nầy, ta nghịch cùng ngươi, là kẻ đã phá tan cả thế gian! Ta sẽ giá tay trên ngươi, sẽ xô ngươi lăn xuống từ trên các vầng đá, làm cho ngươi thành ra núi bị cháy. 26 Người ta sẽ chẳng từ nơi ngươi lấy đá làm góc cùng đá làm nền nữa, nhưng ngươi sẽ là hoang vu đời đời, Đức Giê-hô-va phán vậy.
27 Hãy dựng cờ xí trong đất; thổi kèn trong các nước; sửa soạn các dân đánh nó! Hãy gọi những nước A-ra-rát, Min-ni, Ách-kê-na, đến đánh nó! Hãy lập một quan tướng đạo binh! Hãy khiến những ngựa lên như cào cào! 28 Hãy sửa soạn các nước đánh nó, tức các vua Mê-đi, các quan cai trị nó, các quan đề hình nó, và cả đất mà những người ấy cai quản!
29 Đất rúng động và sầu thảm, vì ý chỉ của Đức Giê-hô-va nghịch cùng Ba-by-lôn đã đứng vững, để làm cho Ba-by-lôn thành ra hoang vu không có dân ở. 30 Những lính chiến của Ba-by-lôn thôi đánh, cứ ở trong các đồn lũy; sức chúng nó đã kiệt, trở nên giống như đàn bà. Nhà của nó bị đốt, then gài cửa nó bị bẻ. 31 Lính trạm gặp nhau, sứ giả đụng đầu đặng báo tin cho vua Ba-by-lôn rằng thành vua ấy bị đánh lấy khắp tư bề, 32 đò giang bị chiếm giữ, đồng lầy bị đốt cháy bằng lửa, và những lính chiến đã hoảng hồn.
33 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Con gái Ba-by-lôn giống như sân đạp lúa đến kỳ đạp lúa; còn ít lâu nữa, kỳ mùa gặt sẽ đến cho nó. 34 Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã nuốt ta, nghiền ta; bỏ ta như bình trống không; nuốt ta như con vật lớn; lấy của ngon ta làm no bụng người; đuổi ta ra khỏi. 35 Dân cư Si-ôn sẽ nói rằng: Nguyền sự bạo ngược đã làm cho ta, và xác thịt ta xuống trên Ba-by-lôn! Giê-ru-sa-lem sẽ nói rằng: Nguyền cho huyết ta đổ trên dân cư Canh-đê!
36 Vậy nên, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ đối nại việc ngươi, trả thù cho ngươi; ta sẽ làm khô biển nó và làm cạn tắt nguồn nó. 37 Ba-by-lôn sẽ trở nên đống hư nát, hang chó rừng, trò gở lạ và xỉ báng, không có dân ở nữa.
38 Chúng nó sẽ cùng nhau gầm thét như sư tử tơ, rống như sư tử con. 39 Khi chúng nó càng nóng nảy lắm, ta sẽ dọn tiệc cho, và làm cho say, hầu cho chúng nó được vui mừng, và ngủ một giấc đời đời, không thức dậy nữa; Đức Giê-hô-va phán vậy. 40 Ta sẽ làm cho chúng nó xuống hàng thịt như chiên con, chiên đực, và dê đực vậy.
41 Sê-sác đã bị chiếm lấy, và thành mà cả thiên hạ đều ngợi khen đã bị bắt là thể nào! Ba-by-lôn đã trở nên sự hoang vu giữa các nước là thể nào! 42 Biển lên ngập Ba-by-lôn, nó bị muôn vàn luồng sóng bao bọc lấy. 43 Các thành nó đã trở nên hoang vu, đất khô, nơi sa mạc, đất không dân ở, không con người nào đi qua. 44 Ta sẽ đoán phạt Bên trong Ba-by-lôn, sẽ móc vật nó đã nuốt ra khỏi miệng nó; các nước sẽ chẳng đổ về nó nữa. Tường thành Ba-by-lôn cũng sẽ xiêu đổ!
45 Hỡi dân ta, hãy ra khỏi giữa nó, ai nấy khá cứu mình khỏi cơn giận phừng phừng của Đức Giê-hô-va! 46 Lòng các ngươi chớ nhút nhát, chớ sợ hãi vì những tin đồn ra trong đất nầy. Vì năm nay một tin đồn đến, rồi sau năm khác cũng có tin đồn; có sự bạo ngược trong đất, kẻ cai trị nghịch cùng kẻ cai trị.
47 Vậy nên, nầy, những ngày đến, ta sẽ đoán phạt các tượng chạm của Ba-by-lôn; cả đất nó sẽ bị xấu hổ; những người bị giết sẽ ngã xuống giữa nó. 48 Lúc đó, các từng trời, đất, và mọi vật trên đất đều cất tiếng reo vui vì Ba-by-lôn; vì những kẻ hủy hại từ các miền phương bắc ào đến trên nó, Đức Giê-hô-va phán vậy. 49 Như Ba-by-lôn đã làm cho kẻ bị giết của Y-sơ-ra-ên ngã xuống, cũng vậy, kẻ bị giết của Ba-by-lôn cũng sẽ ngã xuống trong cả đất mình. 50 Các ngươi là kẻ đã tránh khỏi gươm, hãy đi, đừng đứng lại! Từ phương xa hãy nhớ đến Đức Giê-hô-va, và tưởng tới Giê-ru-sa-lem!
51 Chúng ta hổ ngươi vì sự sỉ nhục mà mình đã nghe; sự hổ thẹn đầy mặt chúng ta; vì kẻ ngoại đã xâm vào nơi thánh của nhà Đức Giê-hô-va. 52 Vậy nên, Đức Giê-hô-va phán: Nầy, những ngày đến, ta sẽ đoán phạt các tượng chạm của Ba-by-lôn; cả trong đất nó, những người bị thương sẽ rên siết. 53 Dầu Ba-by-lôn dấy lên tận trời, dầu nó làm thành rất cao cho kiên cố, ta cũng sẽ sai những kẻ hủy hại đến nghịch cùng nó. Đức Giê-hô-va phán vậy.
54 Từ Ba-by-lôn dấy lên tiếng khóc than, và tiếng hủy hoại lớn vang ra từ đất người Canh-đê! 55 Vì Đức Giê-hô-va làm cho Ba-by-lôn ra hoang vu, dứt tiếng ồn ào trong ấy. Sóng chúng nó gầm thét như nhiều nước; tiếng chúng nó vang ra. 56 Thật, kẻ tàn hại đã ào đến trên Ba-by-lôn. Những kẻ mạnh mẽ của nó bị bắt, cung chúng nó bị gãy; vì Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời hay báo trả, Ngài chắc sẽ báo trả cho. 57 Đức Vua, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán: Ta sẽ làm cho say các quan trưởng, các kẻ khôn ngoan, các quan cai trị, các quan đề hình, cùng những lính chiến của nó; chúng nó sẽ ngủ một giấc đời đời và không tỉnh thức nữa. 58 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Tường thành Ba-by-lôn dầu rộng lắm, sẽ bị đổ xuống hết, cửa nó dầu cao lắm, sẽ bị lửa đốt cháy. Ấy vậy, các dân khó nhọc mà chẳng được gì, các nước làm việc cho lửa, và đều mệt mỏi.
59 Nầy là lời của tiên tri Giê-rê-mi dặn Sê-ra-gia, con trai Nê-ri-gia, cháu Ma-ha-sê-gia, khi người đi với Sê-đê-kia, vua Giu-đa, qua nước Ba-by-lôn trong năm thứ tư đời vua ấy. Bấy giờ Sê-ra-gia làm quan nội đại thần. 60 Giê-rê-mi chép vào sách hết thảy các tai nạn phải đến cho Ba-by-lôn, tức mọi lời đã được chép về Ba-by-lôn. 61 Giê-rê-mi nói với Sê-ra-gia rằng: Khi ngươi đã đến Ba-by-lôn, khá lo đọc hết những lời nầy. 62 Rồi ngươi khá nói: Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã phán rằng sẽ hủy diệt thành nầy, và nơi nầy sẽ không ai ở nữa, từ loài người cho chí loài vật cũng không, song sẽ nên một nơi hoang vu đời đời. 63 Khi ngươi đã đọc sách nầy xong, thì khá cột vào sách một cục đá, mà ném xuống giữa sông Ơ-phơ-rát, 64 và khá nói rằng: Ba-by-lôn sẽ chìm xuống như vậy! Nó sẽ chẳng còn chỗi dậy nữa vì tai nạn mà ta sẽ giáng trên nó, chúng nó sẽ mỏi mệt.
 Lời của Giê-rê-mi đến đây.

51

Nau Yêhôva Phat Dôih Ƀon Babilôn

1Pô aơ Yêhôva lah: "Aơ, gâp mra ăn sial ƀư rai tâm rdâng đah ƀon Babilôn, jêh ri phung gŭ tâm ƀon Lip-Kamai (bri Kaldê).
2Gâp mra prơh hăn phung bunăch tât rkhŭk ƀon Babilôn, jêh ri khân păng gŭm-nsiăng bri dak păng, yorlah lĕ tât nar ƀư rai jêh, khân păng mra văch ƀư ma Babilôn tă bơh puăn njônh bri gŭ jŭm pãng.
3Lơi ăn tahan djôt na van na păng ôh, jêh ri lơi ăn păng gŭ dâk nsoh ao loih păng ôh.
 Lơi hôm om ôh phung tahan ndăm păng, ƀư rai lĕ rngôch phung tahan pãng.
4Khân păng mra chôt khĭt tâm bri phung Kaldê, jêh ri bu ntâp tât khĭt tâm trong toyh păng.
5Jêh ri phung Israel nđâp phung Yuda bu mâu dun chalơi ôh yorlah Brah Ndu khân păng, Brah Ndu Yêhôva ma phung tahan; nđâp lah bri dak khân păng bêng ma nau tih mhĭk kađôi lĕ ta nãp Nơm Kloh Ueh Israel.
6"Du hom tă bơh ƀon Babilôn, ăn ăp nơm nchuăt du tâm rklaih nau rêh păng!
 Lơi ăn rai yot ôh yor ma nau tih ôbăl, yorlah aơ jêng rnôk Yêhôva plơng bôk, Păng mra mplơ̆ sĭt ma păng tĭng nâm kan păng hŏ ƀư jêh.
7Ƀon Babilôn jêng du mlâm kachok mah tâm ti Yêhôva, ăn lĕ rngôch lam bri neh ntu nhŭl ndrănh; phung ndŭl mpôl bunuyh hŏ nhêt jêh ndrănh păng, yor nây yơh dĭng jêng brŭt moih.
8Ƀât lât ƀon Babilôn lĕ tŭp jêh ri chah rai jêh; yor na păng nhĭm vơl hŏm!
 Sŏk hom dak si sãm nau ji păng, gĭt lah păng dơi bah ji?
9He ăt ŭch lĕ gay ƀư bah ƀon Babilôn, ƀiălah ôbăl mâu dơi bah ôh
 Chalơi hom păng, jêh ri ăn ăp nơm hăn sĭt rlet ma bri păng nơm; yorlah nau tâm rmal ma păng hao tât kalơ trôk, păng hao kalơ tât ma ndâr tŭk.
10Yêhôva hŏ tâm mpơl jêh nau he jêng sŏng srăng; văch hom, ăn he mbơh tâm ƀon Siôn kan Yêhôva Brah Ndu he hŏ ƀư jêh.'
11"Lanh hom hăr! Kuăn khêl ăn nâp!
 Yêhôva hŏ nsônh jêh nau ŭch mĭn phung hađăch bri Mêdơ,
 Yorlah nau păng ŭch ƀư jêng nau ƀư rai lơi ƀon Babilôn;
 Yêhôva mra plơng bôk,
 Păng mra plơng bôk ma ngih brah Păng.
12N'hao bok pla tâm rdâng đah mpêr ƀon Babilôn, ntop phung gak ăn katang, dơm phung gak, kâp ƀư ma khân păng; yorlah Yêsu hŏ nkra jêh nau
 Păng ŭch ƀư jêh ri nau Păng ngơi lah ma phung gŭ tâm ƀon Babilôn.
13Hơi ƀon toyh ndrŏng ma drăp ndơ khlay, gŭ dăch âk n'hor dak, nau rai lôch ma may tât jêh, rnôk bu mra ƀư rai may.
14Yêhôva ma phung tahan ton săk êng ma păng nơm; n'hêl nê̆ gâp mra ăn ma may bêng phung băl bu êng âk râk nâm bu krah; jêh ri khân păng mra nter troh yorlah khân păng dơi jêh tâm rdâng đah may.
15"Yêhôva yơh jêng Nơm hŏ rhăk njêng jêh neh ntu ma nau brah Păng.
 Păng ƀư nâp neh ntu ma nau blau mĭn Păng, jêh ri ma nau gĭt rbăng Păng lăk jêh phung trôk.
16Tơlah tăng Păng ngơi, geh nteh dak ro-rŏch tâm phung trôk, jêh ri Păng ăn dak ngom hao thŭl bơh bôl dũt neh ntu.
 Păng njêng lơp ndrel ma dak mih, jêh ri tă tâm jay Păng luh du sial.
17Yor ri geh âk nuyh jêng rluk, jêh ri mâu geh nau gĭt rbăng ôh; nơm rhăk mah prêng da dê yor ma rup trah brah păng, yorlah rup trah khân păng mâu ngăn ôh, jêh ri mâu geh nsôr n'hâm ôh (suh n'hâm) tâm rup nây.
18Ndơ nây mâu khlay ôh, du ntil kan ndơm bu; ta rnôk tât nau tâm rmal ma khân păng, khân păng mra rai-yot.
19Drăp ndơn Y-Yakôb mâu jêng nâm bu ndơ nây ôh, yorlah Păng yơh jêng Nơm hŏ rhăk njêng lĕ rngôch ndô ndơ, mpôl băl Israel jêng drăp ndơn Păng;
 Amoh Păng jêng Yêhôva ma phung tahan.
20"may jêng me nôp jêh ri ndơ gâp rnă tâm lơh; gâp dŏng may ƀư chah lĕ rngôch phung mpôl bunuyh jêh ri ma may gâp ƀư rai âk ƀon bri hađăch.
21Gâp mra dŏng may ƀư chah hăch rhên.
 Seh jêh ri rmăk păng, ma may gâp ƀư chah hăch-rhên ndeh seh jêh ri rmăk păng,
22ma may gâp ƀư rai bu ur jêh ri bu klâu, ma may gâp ƀư rai bu klâu ranh jêh ri phung bu mom, ma may gâp ƀư rai phung bu klâu ndăm jêh ri bu druh tang-tat,
23ma may gâp ƀư rai rmăk biăp nđâp ma biăp păng, ma may gâp ƀư rai nơm ƀư mir jêh ri ndrôk chuar mir păng ma may gâp ƀư rai kôranh toyh jêh ri phung kôranh tahan.
24"Gâp mra mplơ̆ sĭt ma ƀon Babilôn jêh ri lĕ rngôch phung gŭ tâm bri Kaldê ta năp măt khân may yor lĕ rngôch nau mhĭk khân păng hŏ mâp ƀư jêh tâm ƀon Siôn." Yêhôva lah.
25"Aơ, gâp tâm rdâng ma may,
 Ơ yôk gĭt ƀư rai."
 Yêhôva lah, "nơm ƀư rai lĕ neh ntu;
 Gâp mra yơr ti gâp ƀư ma may, jêh ri mra rlă may bơh pŭng yôk, ƀư ăn may jêng yôk ŭnh sa jêh.
26Bu mâu mra sŏk du mlâm lŭ tă bơh may dơm ta njônh, jêh ri mâu lĕ sŏk du mlâm lŭ nây ƀư mbon đŏng, ƀiălah may mra jêng ntŭk rngol ƀaƀơ n'ho ro," Yêhôva lah.
27"N'hao hom du blah bok pla ta kalơ neh ntu, uh hom nŭng ta nklang phung mpôl băl bunuyh;
 Ndrăp rơm hom phung mpôl băl bunuyh gay tâm lơh đah păng.
 Kuăl hom phung bri hađăch
 Ararat, Mini, jêh ri Askênas vãch tât ƀư ma păng! Dơm hom du huê kôranh tahan toyh tâm rdâng đah păng, djôt leo hom seh ăn âk râk nâm bu krah!
28Rơm ndrăp hom ntil mpôl bunuyh tâm lơh đah păng, phung hađăch bri Mêdơ ndrel ma phung kôranh toyh jêh ri phung kôranh păng, jêh ri lĕ rngôch bri khân păng chiă uănh.
29Neh tât n'găr jêh ri mpât n'gơ yorlah nau Yêsu nkra ŭch ƀư ma ƀon Babilôn hŏ nâp ngăn, ŭch ăn bri Babilôn jêng rngol mâu geh bunuyh gŭ ta nây ôh.
30Phung tahan bri Babilôn rlu jêh tâm lơh, khân păng ăt gŭ tâm pôih nâp khân păng; nau katang khân păng lĕ roh jêh, khân păng jêng nâm bu bu ur; ngih vâl khân păng mra bu su ma ŭnh, mâng rnăng mpông pêr pă jêh (deh jêh).
31Tahan gak rmlak, văch mbơh tâm mâp ndrel đah nơm êng, du huê nơm ntuh bâr tâm mâp đah nơm ntuh bâr êng gay mbơh ma hađăch Babilôn ma nau ƀon khân păng lĕ bu sŏk jêh jŭm pŭng meng;
32Mbõng dak ntŭk bu vay lăp rgăn lĕ bu sŏk jêh, ntŭk djut rhuh lĕ bu su jêh ma ŭnh, jêh ri phung tahan lĕ klach nsâr."
33Yorlah pô aơ Yêhôva Brah Ndu Israel lah: "Kon bu ur ƀon Babilôn jêng nâm bu ntŭk bu mprah ba ta yan bu plên ba, hôm kanŏng djê̆ lê̆, jêh ri yan bu rek păng mra tât."
34"Y-Nebukatnetsar, hađăch Babilôn, hŏ gĭnh rvăn gâp jêh, ƀư chah gâp, chalơi gâp nâm bu yăng nsoih; păng sa rvăn gâp, păng jêng nâm bu mpô mpa bri toyh; păng mbêng ndŭl păng ma ndơ kah gâp; păng mprơh luh padih."
35Ăn phung gŭ tâm ƀon Siôn lah:
 "Ăn nau ƀư ƀai hŏ ƀư ma gâp jêh ri ma nglay săk gâp tât ma ƀon Babilôn,
 "Ăn phung gŭ tâm ƀon Yêrusalem lah,
 "Ăn mham gâp hoch ta kalơ phung gŭ tâm bri Kaldê."
36Yor nây pô aơ Yêhôva lah:
 Aơ, gâp mra king nau kon may, jêh ri har plơng bôk ăn ma may.
 Gâp mra nsuăt lơi dak mƀŭt păng, jêh ri ăn tu păng sơh, kroh.
37Ƀon Babilôn mra jêng du mbŭch ndơ djơh rai, ntŭk so bri gŭ, du ntil ndơ bu nkrit, jêh ri ndơ bu nsŭch n'găp, mâu hôm geh bunuyh gŭ ôh.
38Khân păng mra ngrông ndrel n'grŭp nâm bu yau mŭr khân păng mra rđuh nâm bu kla mŭr kon.
39Dôl khân păng nsônh nuih ŭch ƀư khân păng nkra nau sông sa toyh ma khân păng, jêh ri ăn khân păng nhŭl ndrănh kŏ tât khân păng troh nter jêh ri gơm, jêh ri n'ho lêt bêch, mâu hôm kah rngăl ôh," Yêhôva lah.
40"Gâp mra njŭn khân păng jŭr ma ntŭk bu sreh nkhĭt nâm bu kon biăp, nâm bu biăp nkuăng jêh ri be nkuăng.
41"Sêsăk lĕ bu sŏk jêh, jêh ri ƀon chrêk ma lơp ma lĕ rngôch neh ntu moh nau dĭng bu sŏk! Babilôn hŏ jêng rngol jêh ta nklang ntil mpôl bunuyh!
42Dak mƀŭt lip bŭk jêh bri Babilôn; bri nây lĕ nkŭm jêh ma dak rbuh.
43Ƀon bri Babilôn lĕ jêng ntŭk rngol, du n'gor bri sơh, jêh ri bri hŏng, bri mâu geh bunuyh gŭ ôh, jêh ri mâu geh du huê kon bunuyh văch rgăn ta nây ôh.
44Gâp mra tâm rmal brah Bel tâm bri Babilôn, jêh ri sŏk ntơt bơh trôm mbung păng moh ndơ păng lĕ rvăn jêh.
 Phung mpôl băl bunuyh mâu mra yơk mbah đŏng ma păng ôh; mpêr ƀon Babilôn lĕ rlâm jêh.
45"Luh du hom tă bơh ta nklang păng,
 Ơ phung ƀon lan gâp! nchuăt du hŏm gay tâm rklaih nau rêh khân may! klaih tă bơh nau Yêhôva duh nuih!
46Lơi ta djôh nuih n'hâm ôh, jêh ri mâu klach lĕ ma nau bu nkoch mbơh tâm bri dak aơ. Yorlah tâm năm aơ geh du nau bu tât mbơh, jêh ri tâm năm pakơi taơ ăt geh nau bu mbơh êng; mbơh nau bu ƀư djơh tâm n'gor, jêh ri kôranh chiă uănh tâm rdâng ndrăng kôranh chiă uănh êng.
47Yor ri, aơ, mra tât nar, gâp mra tâm rmal lĕ rup brah ƀon Babilôn, lĕ rngôch bri neh păng geh nau bêk prêng; jêh ri lĕ rngôch bunuyh gŭ tâm nklang păng mra chôt khĭt.
48Nôk nây, phung kalơ trôk jêh ri tâm neh ntu, geh bâr mprơ maak yor ƀon Babilôn; yorlah phung ƀư rai tă bơh dor lơ mra văch tât lơh đah ƀon Babilôn." Yêhôva lah.
49"Nâm bu ƀon Babilôn hŏ ƀư jêh ma phung nkhĭt Israel chôt khĭt, ăt tâm ban lĕ, phung nkhĭt Babilôn ăt mra chôt khĭt tâm lam bri neh păng.
50Phung khân may jêng phung hŏ klaih jêh bơh đao, du hom, lơi hôm gŭ gâng ôh!
 Tă bơh bri ngai kah gĭt hom ma Yêhôva, jêh ri klân rvê hom ma Yêrusalem."
51"Bu ƀư prêng he jêh, yorlah he tăng jêh nau bu nduyh; nau prêng nkŭm jêh muh măt he, yorlah phung bu năch lăp jêh tâm ntŭk kloh ueh ngih Yêhôva.
52Yor ri, Yêhôva lah: "Aơ, nar mra tât, tơlah gâp mra phat dôih rup brah păng, phung sôt rmanh mra nter lam bri păng."
53Nđâp tơlah ƀon Babilôn mra hao tât ta trôk, jêh ri nđâp lah păng ƀư ƀon toyh nâp ngăn ta kalơ ntŭk prêh kđôi, ăt phung ƀư nau tă bơh gâp prơh hăn mra tât ma păng," Yêhôva lah.
54"Iăt hom! Geh nau nter tă bơh ƀon Babilôn!
 Nteh nau ƀư rai toyh bơh bri phung Kaldê!
55Yorlah Yêhôva ƀư ma Babilôn jêng rngol, jêh ri ăn rngơt bâr păng drơu sơu tâm nây gŭ rklăk.
 Phung ƀư rai troh mâu bu n'gô dak toyh,
 Bu tăng bâr khân păng nter huy;
56Yorlah nơm ƀư rai văch ƀư jêh ma ƀon Babilôn; bu lĕ nhŭp jêh tahan păng, na păng lĕ klah jêh, yorlah
 Yêhôva jêng Brah Ndu plơng bôk nau di, tĭng nâm kan păng ƀư, n'hêl nê̆ păng mra plơng ăn nŭm.
57Hađăch lah, amoh Păng jêng Yêhôva ma phung tahan, lah: Gâp mra ƀư ăn nhŭl ndrãnh phung kôranh toyh, lĕ rngôch phung blau mĭn, phung kôranh chiă uănh, phung kôranh tahan nđâp ma phung tahan tâm ban lĕ.
 Khân păng mra lêt bêch mro, mâu hôm kah rngăl ôh,"
58Pôaơ nau Yêhôva ma phung tahan lah:
 "Mpêr ƀon Babilôn nđâp lah huy ngăn, mra klưh rlâm lĕ ƀhiau, mpông pêr nđâp lah prêh ngăn, bu mra su ma ŭnh.
 Nây yor, nau hŏt raah ƀon lan pah kan dơm dam, jêh ri phung mpôl bunuyh bri êng pah kan hŏt rgănh, kanŏng prăp ăn ma ŭnh."
59Aơ jêng nau ngơi kôranh nơm mbơh lor Y-Yêrêmi ntĭnh ma Y-Sêraya ƀon buklâu Y-Nêria sau Y-Mahseya tơlah păng hăn ndrel ma Y-Sêdêkia hađăch bri Yuda ma bri Babilôn tâm năm rơh puăn păng chiă uănh. Y-Sêraya jêng nơm mât trôm jrô ngih.
60Y-Yêrêmi chih du ndrom sămƀŭt lĕ rngôch nau mhĭk tât ma ƀon Babilôn, jêng lĕ rngôch nau ngơi hŏ chih jêh nkoch Babilôn.
61Y-Yêrêmi lah ma Y-Sêraya: "Tơlah may hŏ tât Babilôn, ăn may uănh lĕ nau ngơi ao,
62jêh ri lah, 'Ơ Yêhôva, may hŏ lah jêh mra ƀư rai ƀon aơ, pôri mâu geh du ntil ndơ mra gŭ tâm păng ôh, mâu geh bunuyh lĕ, n'ho tât ma mpô mpa kŏ mâu geh lĕ jêh ri păng mra jêng rngol ƀa ƀơ n'ho ro.' 63Tơlah may uănh hŏ lĕ ndrom sămƀŭt aơ, kât du glo lŭ ndop ma păng, jêh ri mƀăr tâm dak krong Ơprat. 64Jêh ri lah, 'Pô nây ƀon Babilôn mra ngâm tâm ban nây lĕ! Păng mâu mra ntoh du (du dâk) đŏng ôh, yorlah nau mhĭk gâp ƀư mra tât ma păng. Jêh ri phung ƀon lan păng mra chalôt.'" Ngu ngơi Y-Yêrêmi dŭt aơ.