51

Lời tiên tri về Ba-by-lôn

1 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ khiến gió hủy diệt dấy lên nghịch cùng Ba-by-lôn, nghịch cùng những người ở trong Líp-Ca-mai. 2 Ta sẽ sai những người dân ngoại đến sàng sảy Ba-by-lôn, và làm tiêu hao đất nó; vì đến ngày khốn nạn, chúng nó sẽ đến trên Ba-by-lôn khắp tư bề. 3 Khá giương cung cự lại kẻ cầm cung, và cự lại kẻ mặc áo giáp đi xúng xính! Chớ chừa những lính chiến trai trẻ của Ba-by-lôn; hãy diệt trọn hết cả đạo binh nó. 4 Chúng nó sẽ bị giết, ngã xuống trong đất người Canh-đê, và bị đâm trong các đường phố nó.
5 Y-sơ-ra-ên cùng Giu-đa chẳng bị lìa bỏ bởi Đức Chúa Trời mình, bởi Đức Giê-hô-va vạn quân; dầu đất chúng nó đầy tội lỗi nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 6 Hãy trốn khỏi giữa Ba-by-lôn, ai nấy khá thoát mạng mình; chớ vì tội nó mà bị chết mất. Vì ấy là kỳ trả thù của Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ báo cho nó. 7 Ba-by-lôn vốn là một cái chén vàng trong tay Đức Giê-hô-va, làm cho say cả đất; các nước đã uống rượu nó, vì đó mà trở nên điên cuồng. 8 Ba-by-lôn thình lình bị đổ xuống và tan nát. Hãy vì nó than khóc! Hãy lấy nhũ hương chữa đau đớn nó, hoặc nó được chữa lành chăng? --- 9 Chúng ta vẫn muốn chữa lành cho Ba-by-lôn, song nó không được chữa. Hãy lìa bỏ nó, ai nấy trở về xứ mình; vì sự phán xét nó thấu đến tận trời và lên tận vòng khung. 10 Đức Giê-hô-va đã tỏ ra sự công bình chúng ta. Hãy đến, rao ra trong Si-ôn công việc của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta.
11 Hãy chuốc tên, cầm thuẫn cho chắc! Đức Giê-hô-va đã giục lòng các vua ở Mê-đi, vì Ngài đã định ý hủy diệt Ba-by-lôn. Vì đây là sự báo thù của Đức Giê-hô-va, Ngài trả thù về đền thờ của Ngài. 12 Hãy dựng cờ xí đánh các tường thành Ba-by-lôn! Khá thêm lính giữ, đặt vọng canh, sắp quân phục! Vì Đức Giê-hô-va đã định ý và đã làm ra sự Ngài đã phán về dân cư Ba-by-lôn. 13 Hỡi thành giàu có của báu, ở trên nhiều dòng nước kia, sự cuối cùng ngươi đã đến, cái lượng sự tham lam ngươi đã đầy! 14 Đức Giê-hô-va vạn quân đã chỉ mình mà thề rằng: Ta chắc sẽ làm cho ngươi đầy người ta, đông như cào cào; chúng nó sẽ trổi tiếng kêu la nghịch cùng ngươi
15 Chính Ngài là Đấng đã lấy quyền năng mình dựng nên đất, lấy sự khôn ngoan mình lập thành thế gian, lấy sự sáng suốt mình giương các từng trời ra. 16 Nghe tiếng Ngài, những nước trong các từng trời om sòm. Ngài khiến hơi nước lên từ các đầu cùng đất, khiến chớp theo mưa, từ trong kho tàng mình phát ra gió. 17 Vậy nên phàm người đều mê muội, lảng trí; thợ vàng đều xấu hổ về tượng đúc của mình; vì tượng đúc nó chỉ là giả dối, chẳng có hơi thở ở trong. 18 Những thần tượng chỉ là hư không, là việc phỉnh dối; đến ngày thăm phạt sẽ diệt mất cả. 19 Nhưng cơ nghiệp của Gia-cốp thì chẳng giống như chúng nó, vì chính Ngài là Đấng đã tạo nên mọi vật, còn Y-sơ-ra-ên là chi phái của cơ nghiệp Ngài. Danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân.
20 Ngươi làm búa và khí giới đánh giặc cho ta; ta sẽ dùng ngươi phá tan các dân và diệt các nước. 21 Ta sẽ dùng ngươi phá tan ngựa và người cưỡi ngựa, phá tan xe và kẻ cỡi xe. 22 Ta sẽ dùng ngươi phá tan đàn ông, đàn bà, già và trẻ; ta sẽ dùng ngươi phá tan trai trẻ và gái đồng trinh. 23 Ta sẽ dùng ngươi phá tan kẻ chăn và bầy nó, kẻ cày ruộng và đôi bò nó. Ta sẽ dùng ngươi phá tan các quan cai trị và các quan đề hình. 24 Nhưng trước mắt các ngươi, ta sẽ báo cho Ba-by-lôn và mọi dân cư Canh-đê phàm điều ác chi mà chúng nó đã làm tại Si-ôn, Đức Giê-hô-va phán vậy.
25 Đức Giê-hô-va phán: Hỡi núi hay hủy diệt, nầy, ta nghịch cùng ngươi, là kẻ đã phá tan cả thế gian! Ta sẽ giá tay trên ngươi, sẽ xô ngươi lăn xuống từ trên các vầng đá, làm cho ngươi thành ra núi bị cháy. 26 Người ta sẽ chẳng từ nơi ngươi lấy đá làm góc cùng đá làm nền nữa, nhưng ngươi sẽ là hoang vu đời đời, Đức Giê-hô-va phán vậy.
27 Hãy dựng cờ xí trong đất; thổi kèn trong các nước; sửa soạn các dân đánh nó! Hãy gọi những nước A-ra-rát, Min-ni, Ách-kê-na, đến đánh nó! Hãy lập một quan tướng đạo binh! Hãy khiến những ngựa lên như cào cào! 28 Hãy sửa soạn các nước đánh nó, tức các vua Mê-đi, các quan cai trị nó, các quan đề hình nó, và cả đất mà những người ấy cai quản!
29 Đất rúng động và sầu thảm, vì ý chỉ của Đức Giê-hô-va nghịch cùng Ba-by-lôn đã đứng vững, để làm cho Ba-by-lôn thành ra hoang vu không có dân ở. 30 Những lính chiến của Ba-by-lôn thôi đánh, cứ ở trong các đồn lũy; sức chúng nó đã kiệt, trở nên giống như đàn bà. Nhà của nó bị đốt, then gài cửa nó bị bẻ. 31 Lính trạm gặp nhau, sứ giả đụng đầu đặng báo tin cho vua Ba-by-lôn rằng thành vua ấy bị đánh lấy khắp tư bề, 32 đò giang bị chiếm giữ, đồng lầy bị đốt cháy bằng lửa, và những lính chiến đã hoảng hồn.
33 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Con gái Ba-by-lôn giống như sân đạp lúa đến kỳ đạp lúa; còn ít lâu nữa, kỳ mùa gặt sẽ đến cho nó. 34 Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã nuốt ta, nghiền ta; bỏ ta như bình trống không; nuốt ta như con vật lớn; lấy của ngon ta làm no bụng người; đuổi ta ra khỏi. 35 Dân cư Si-ôn sẽ nói rằng: Nguyền sự bạo ngược đã làm cho ta, và xác thịt ta xuống trên Ba-by-lôn! Giê-ru-sa-lem sẽ nói rằng: Nguyền cho huyết ta đổ trên dân cư Canh-đê!
36 Vậy nên, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ đối nại việc ngươi, trả thù cho ngươi; ta sẽ làm khô biển nó và làm cạn tắt nguồn nó. 37 Ba-by-lôn sẽ trở nên đống hư nát, hang chó rừng, trò gở lạ và xỉ báng, không có dân ở nữa.
38 Chúng nó sẽ cùng nhau gầm thét như sư tử tơ, rống như sư tử con. 39 Khi chúng nó càng nóng nảy lắm, ta sẽ dọn tiệc cho, và làm cho say, hầu cho chúng nó được vui mừng, và ngủ một giấc đời đời, không thức dậy nữa; Đức Giê-hô-va phán vậy. 40 Ta sẽ làm cho chúng nó xuống hàng thịt như chiên con, chiên đực, và dê đực vậy.
41 Sê-sác đã bị chiếm lấy, và thành mà cả thiên hạ đều ngợi khen đã bị bắt là thể nào! Ba-by-lôn đã trở nên sự hoang vu giữa các nước là thể nào! 42 Biển lên ngập Ba-by-lôn, nó bị muôn vàn luồng sóng bao bọc lấy. 43 Các thành nó đã trở nên hoang vu, đất khô, nơi sa mạc, đất không dân ở, không con người nào đi qua. 44 Ta sẽ đoán phạt Bên trong Ba-by-lôn, sẽ móc vật nó đã nuốt ra khỏi miệng nó; các nước sẽ chẳng đổ về nó nữa. Tường thành Ba-by-lôn cũng sẽ xiêu đổ!
45 Hỡi dân ta, hãy ra khỏi giữa nó, ai nấy khá cứu mình khỏi cơn giận phừng phừng của Đức Giê-hô-va! 46 Lòng các ngươi chớ nhút nhát, chớ sợ hãi vì những tin đồn ra trong đất nầy. Vì năm nay một tin đồn đến, rồi sau năm khác cũng có tin đồn; có sự bạo ngược trong đất, kẻ cai trị nghịch cùng kẻ cai trị.
47 Vậy nên, nầy, những ngày đến, ta sẽ đoán phạt các tượng chạm của Ba-by-lôn; cả đất nó sẽ bị xấu hổ; những người bị giết sẽ ngã xuống giữa nó. 48 Lúc đó, các từng trời, đất, và mọi vật trên đất đều cất tiếng reo vui vì Ba-by-lôn; vì những kẻ hủy hại từ các miền phương bắc ào đến trên nó, Đức Giê-hô-va phán vậy. 49 Như Ba-by-lôn đã làm cho kẻ bị giết của Y-sơ-ra-ên ngã xuống, cũng vậy, kẻ bị giết của Ba-by-lôn cũng sẽ ngã xuống trong cả đất mình. 50 Các ngươi là kẻ đã tránh khỏi gươm, hãy đi, đừng đứng lại! Từ phương xa hãy nhớ đến Đức Giê-hô-va, và tưởng tới Giê-ru-sa-lem!
51 Chúng ta hổ ngươi vì sự sỉ nhục mà mình đã nghe; sự hổ thẹn đầy mặt chúng ta; vì kẻ ngoại đã xâm vào nơi thánh của nhà Đức Giê-hô-va. 52 Vậy nên, Đức Giê-hô-va phán: Nầy, những ngày đến, ta sẽ đoán phạt các tượng chạm của Ba-by-lôn; cả trong đất nó, những người bị thương sẽ rên siết. 53 Dầu Ba-by-lôn dấy lên tận trời, dầu nó làm thành rất cao cho kiên cố, ta cũng sẽ sai những kẻ hủy hại đến nghịch cùng nó. Đức Giê-hô-va phán vậy.
54 Từ Ba-by-lôn dấy lên tiếng khóc than, và tiếng hủy hoại lớn vang ra từ đất người Canh-đê! 55 Vì Đức Giê-hô-va làm cho Ba-by-lôn ra hoang vu, dứt tiếng ồn ào trong ấy. Sóng chúng nó gầm thét như nhiều nước; tiếng chúng nó vang ra. 56 Thật, kẻ tàn hại đã ào đến trên Ba-by-lôn. Những kẻ mạnh mẽ của nó bị bắt, cung chúng nó bị gãy; vì Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời hay báo trả, Ngài chắc sẽ báo trả cho. 57 Đức Vua, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán: Ta sẽ làm cho say các quan trưởng, các kẻ khôn ngoan, các quan cai trị, các quan đề hình, cùng những lính chiến của nó; chúng nó sẽ ngủ một giấc đời đời và không tỉnh thức nữa. 58 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Tường thành Ba-by-lôn dầu rộng lắm, sẽ bị đổ xuống hết, cửa nó dầu cao lắm, sẽ bị lửa đốt cháy. Ấy vậy, các dân khó nhọc mà chẳng được gì, các nước làm việc cho lửa, và đều mệt mỏi.
59 Nầy là lời của tiên tri Giê-rê-mi dặn Sê-ra-gia, con trai Nê-ri-gia, cháu Ma-ha-sê-gia, khi người đi với Sê-đê-kia, vua Giu-đa, qua nước Ba-by-lôn trong năm thứ tư đời vua ấy. Bấy giờ Sê-ra-gia làm quan nội đại thần. 60 Giê-rê-mi chép vào sách hết thảy các tai nạn phải đến cho Ba-by-lôn, tức mọi lời đã được chép về Ba-by-lôn. 61 Giê-rê-mi nói với Sê-ra-gia rằng: Khi ngươi đã đến Ba-by-lôn, khá lo đọc hết những lời nầy. 62 Rồi ngươi khá nói: Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã phán rằng sẽ hủy diệt thành nầy, và nơi nầy sẽ không ai ở nữa, từ loài người cho chí loài vật cũng không, song sẽ nên một nơi hoang vu đời đời. 63 Khi ngươi đã đọc sách nầy xong, thì khá cột vào sách một cục đá, mà ném xuống giữa sông Ơ-phơ-rát, 64 và khá nói rằng: Ba-by-lôn sẽ chìm xuống như vậy! Nó sẽ chẳng còn chỗi dậy nữa vì tai nạn mà ta sẽ giáng trên nó, chúng nó sẽ mỏi mệt.
 Lời của Giê-rê-mi đến đây.

51

Tơlơi Phat Kơđi Dơ̆ng Ƀơi Dêh Čar Babilon

1Anai yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp:
  “Anai nê, Kâo či pơsur đĭ jua bơngăt pô pơrai
   kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng dêh čar Babilon laih anŭn hăng ƀing ană plei Leb-Kamai yơh.
  2Kâo či pơkiaŏ ƀing tuai nao pơ dêh čar Babilon
   kiăng kơ pơrai hĭ ñu kar hăng angĭn pưh pơđuaĭ hĭ hơkam pơdai.
  Amăng hrơi tơlơi răm rai ñu,
   ƀing tuai anŭn či pơkơdơ̆ng glaĭ hăng dêh čar Babilon ƀơi djŏp bơnăh
   kiăng kơ pơrơngol hĭ anih lŏn ñu yơh.
  3Ơ ƀing kơsung blah ƀing Babilon hơi,
   anăm brơi kơ ƀing tơhan hraŏ wă̱ hraŏ gơñu ôh,
   kŏn brơi gơñu buh ao pơgang gơñu lơi.
  Pơrai hĭ bĕ hlo̱m ƀo̱m ƀing ling tơhan gơñu.
   Anăm pioh hơdip sa čô hlak ai đah rơkơi anŭn ôh.
  4Ƀing gơñu či rơbuh djai hĭ amăng plei phŭn Babilon,
   ruă rơka hĭ amăng khul jơlan plei anŭn.
  5Kâo, Ơi Adai ƀing Israel hăng ƀing Yudah,
   jing Yahweh Dưi Kơtang ƀu lui raih hĭ ƀing gơñu kar hăng ƀing đah kơmơi kơmai ôh,
   wơ̆t tơdah anih lŏn gơñu bă hăng tơlơi soh
   pơkơdơ̆ng glaĭ hĭ hăng Kâo, jing Pô Rơgoh Hiam ƀing Israel.

  6“Ơ ƀing ană plei Kâo, đuaĭ tơbiă hĭ bĕ mơ̆ng dêh čar Babilon!
   Đuaĭ pơklaih hĭ bĕ tơlơi hơdip gih!
  Anăm tŭ răm rai hĭ yuakơ khul tơlơi soh ƀing mơnuih dêh čar anŭn ôh.
   Anai jing hrơi mông kơ tơlơi Yahweh rŭ nua ƀơi ƀing gơñu yơh.
   Ñu či kla glaĭ kơ ƀing Babilon hơget tơlơi ƀing gơñu năng tŭ yơh.
  7Babilon jing kar hăng kơčŏk mah amăng tơngan Kâo, Yahweh.
   Ƀing lŏn čar abih lŏn tơnah mơñum ia tơpai mơ̆ng kơčŏk anŭn,
   tơl abih bang ƀing măt hĭ yơh.
   Hơnŭn yơh, ră anai ƀing gơñu jing hĭ hưt laih.
  8Dêh čar Babilon či blĭp blăp rơbuh hĭ hăng pơčah hĭ.
   Pơkrao brơi kơ ñu bĕ!
  Pik pơjrao brơi bĕ ƀơi tơlơi ruă ñu.
   Năng ai ñu či dưi suaih hĭ yơh.

  9“Ƀing tuai dŏ pơ anŭn pơlaĭ hăng tơdruă gơñu, ‘Ƀing ta gir pơsuaih hĭ dêh čar Babilon,
   samơ̆ ñu ƀu dưi suaih hĭ ôh.
  Brơi bĕ kơ ƀing ta đuaĭ hĭ mơ̆ng ñu laih anŭn glaĭ pơ rĭm anih lŏn ta pô,
   yuakơ tơlơi phat kơđi ƀơi ñu jing prŏng biă mă,
   sĭt tơlơi hing kơ tơlơi phat kơđi anŭn đĭ truh pơ kơthul hăng truh pơ adai adih yơh.’

  10“ ‘Yahweh hơmâo pơgang brơi kơ ƀing ta laih.
   Rai bĕ, brơi kơ ƀing ta ruai bĕ amăng anih Ziôn
   tơlơi Yahweh Ơi Adai ta hơmâo ngă laih.’ ”

  11Ƀing khua tơhan ƀing rŏh ayăt pơhiăp tui anai, “Yahweh hơmâo pơsur đĭ laih ƀing pơtao dêh čar Media,
   yuakơ tơlơi kơñăm Ñu kiăng pơrai hĭ dêh čar Babilon yơh.
  Yahweh či rŭ nua,
   jing tơlơi rŭ nua brơi kơ sang yang Ñu jing ƀing Babilon pơrai hĭ laih yơh.
  Tui anŭn, săh bĕ khul ƀrŏm hraŏ gih,
   djă̱ đĭ bĕ khul khiơl gih!
  12Yơr đĭ bĕ hla gru kiăng laĭ pơthâo ƀing ling tơhan kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng khul pơnăng plei phŭn Babilon!
   Pơkơjăp glaĭ bĕ ƀing gak wai,
   pơdap glaĭ bĕ ƀing krăp lăng,
   prap pre bĕ kiăng kơ krăp pơblah!”
  Yahweh pơgiŏng hĭ laih tơlơi kơñăm Ñu,
   tơlơi pơkă Ñu jing pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing ană plei Babilon yơh.
  13Ơ ƀing hơdip jĕ lu krong ia,
   jing ƀing pơdrŏng mŭk dram,
   tơlơi hơnăl tuč gih hơmâo truh laih,
   jing hrơi mông kơ ƀing gih tŭ tơlơi djai yơh.
  14Yahweh Dưi Kơtang hơmâo ƀuăn rơ̆ng laih hăng tơlơi dưi Ñu pô tui anai:
   “Sĭt Kâo či pơbă hĭ lŏn tơnah gih hăng lu mơnuih, jing lu kar hăng khul kơtop hlăt yơh,
   laih anŭn ƀing gơñu či ur dreo dưi hĭ kơ ƀing gih yơh.”

Tơlơi Yirmeyah Bơni Hơơč Kơ Ơi Adai

(Yirmeyah 10:12-16)

  15Ơi Adai hrih lŏn tơnah hăng tơlơi dưi mơyang Ñu.
   Hăng tơlơi rơgơi Ñu, Ñu pơjing rai kơyâo pơtâo mơnơ̆ng mơnuă
   laih anŭn hăng tơlơi thâo hluh Ñu, Ñu pơkăng khul tal adai kar hăng pơkăng sang khăn yơh.
  16Tơdang Ñu pơđar, ia amăng khul tal adai adih pơgrŏm yơh.
   Ñu pơjing khul kơthul ayŭh đĭ mơ̆ng khul anih ataih amăng lŏn tơnah.
   Ñu brơi kơmlă hăng ia hơjan
   laih anŭn ba tơbiă angĭn mơ̆ng khul anih pioh gơnam Ñu yơh.

  17Tơdang ƀing mơnuih mơnam ƀuh tơlơi anŭn,
   rĭm čô ƀu thâo hluh kơ Ñu jing kar hăng kơmlư laih anŭn mlŭk mơgu.
  Rĭm pô thâo pơkra gơnam pơsơi anŭn ăt mlâo hĭ mơ̆n yua mơ̆ng khul rup trah ñu pơkra,
   yuakơ khul rup ñu anŭn jing yang rơba̱ng,
   laih anŭn ƀu hơmâo tơlơi suă jua amăng drơi jan gơñu ôh.
  18Khul rup anŭn jing đôč đač, jing gơnam arăng djik djak yơh.
   Tơdang Yahweh rai kiăng kơ phat kơđi khul rup anŭn, gơñu či răm rơngiă hĭ yơh.
  19Ơi Adai ƀing Yakôb, jing ƀing Israel, ƀu hrup hăng khul rup anŭn ôh,
   yuakơ Ñu jing Pô Hrih Pơjing kơ abih bang tơlơi mơnơ̆ng.
  Ñu ruah laih ƀing Israel, jing ană plei kŏng ngăn lŏm kơ Ñu pô yơh.
   Yahweh Dưi Kơtang yơh jing anăn Ñu.

Dêh Čar Babilon Jing Gơnam Pơblah Yahweh

  20Yahweh pơhiăp tui anai, “Ơ dêh čar Babilon, ih yơh jing kar hăng tơlŏ pơblah,
   jing kar hăng gơnam pơblah Kâo kơ tơlơi pơblah.
  Hăng ih yơh Kâo pơphač hĭ ƀing lŏn čar,
   sĭt hăng ih yơh Kâo pơrai hĭ khul dêh čar.
  21Hăng ih yơh Kâo pơphač hĭ aseh wơ̆t hăng pô đĭ aseh anŭn.
   Hăng ih yơh Kâo pơphač hĭ rơdêh aseh wơ̆t hăng pô pơgăt rơdêh anŭn mơ̆n.
  22Hăng ih yơh Kâo pơphač hĭ mơnuih đah rơkơi đah kơmơi.
   Hăng ih yơh Kâo pơphač hĭ mơnuih tha rơma hăng ƀing čơđai.
   Hăng ih yơh Kâo pơphač hĭ hlak ai đah rơkơi đah kơmơi.
  23Hăng ih yơh Kâo pơphač hĭ pô wai triu wơ̆t hăng tơpul triu.
   Hăng ih yơh Kâo pơphač hĭ pô ngă hơma wơ̆t hăng rơmô tơno jik kai hơma ñu.
   Hăng ih yơh Kâo pơphač hĭ ƀing khua git gai hăng ƀing khua moa.”

Tơlơi Yahweh Rŭ Nua Ƀơi Dêh Čar Babilon

24Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Ơ ƀing ană plei Kâo hơi, ƀơi anăp mơta gih yơh, Kâo či rŭ nua ƀơi dêh čar Babilon laih anŭn ƀơi abih bang ƀing ană plei dêh čar Babilon yuakơ abih bang tơlơi soh ƀing gơñu hơmâo ngă laih kơ anih Ziôn.” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  25“Ơ plei phŭn Babilon hơi, ih jing kar hăng čư̆ pơrai hĭ abih bang lŏn tơnah,
   samơ̆ Kâo pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ih, Ơ čư̆ pơrai arăng ăh.
  Kâo či yơr tơbiă tơngan kơtang Kâo kiăng kơ kơsung blah ih yơh.
   Kâo či tơglŭng hĭ ih mơ̆ng anih glông ih,
   laih anŭn ngă kơ ih jing kar hăng hơbâo tơpur yơh.”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  26“Arăng ƀu či mă boh pơtâo hơget gĕt mơ̆ng ih ôh kiăng kơ jing boh pơtâo phŭn,
   kŏn mă sa boh lơi kiăng kơ jing boh pơtâo kơ atur,
   yuakơ ih či jing hĭ rơngol hlŏng lar yơh.”
 Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  27“Ơ ƀing rŏh ayăt dêh čar Babilon hơi, yơr đĭ bĕ sa ƀĕ hla gru kiăng kơ ƀing lŏn čar ƀuh!
   Ayŭp bĕ tơdiăp kiăng kơ ƀing gơñu hơmư̆!
  Prap pre bĕ ƀing lŏn čar kơ tơlơi pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng dêh čar Babilon.
   Iâu pơƀut bĕ kiăng pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ñu hơdôm lŏn čar anai:
   Ararat, Minni laih anŭn Askenaz.
  Ruah bĕ sa čô khua git gai abih bang ƀing ling tơhan pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ñu.
   Pơkiaŏ nao bĕ ƀing tơhan aseh lu kar hăng tơpul kơtop hlăt.
  28Prap pre bĕ ƀing lŏn čar kơ tơlơi pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ñu.
   Iâu rai bĕ ƀing pơtao lŏn čar Media,
   ƀing khua git gai gơñu wơ̆t hăng abih bang ƀing khua moa gơñu mơ̆n,
   wơ̆t hăng abih bang lŏn čar ƀing gơñu git gai wai lăng yơh.
  29Anih lŏn anŭn rŭng răng huĭ hyưt hăng tơtư̆ tơtơ̆ng,
   yuakơ hơdôm tơlơi Yahweh kơñăm pơkơdơ̆ng glaĭ hăng dêh čar Babilon,
  kiăng kơ pơrơngol hĭ anih lŏn Babilon yơh
   tơl ƀu hơmâo hlơi pô hơdip amăng anŭn dơ̆ng tah.
  30Ƀing ling tơhan Babilon ƀu pơblah dơ̆ng tah.
   Ƀing gơñu kơnơ̆ng dŏ amăng khul kơđông kơjăp gơñu đôč.
  Tơlơi kơtang gơñu tơdu rơmơ̆n hĭ laih,
   tơl ƀing gơñu jing hĭ tơdu kar hăng ƀing đah kơmơi.
  Khul čơnŭh amăng ja̱ng plei phŭn ñu pơčah hĭ,
   laih anŭn khul anih dŏ plei anŭn arăng čuh hĭ.
  31Pô laĭ pơthâo anai truh tơdơi kơ pô laĭ pơthâo pơkŏn
   laih anŭn pô ding kơna anai truh tơdơi kơ pô ding kơna pơkŏn
  kiăng kơ ruai pơhaih hăng pơtao dêh čar Babilon
   kơ tơlơi plei phŭn ñu ƀing rŏh ayăt hơmâo blah mă hĭ hlo̱m ƀo̱m laih.
  32Ƀing gơñu ăt mă hĭ jơlan găn krong,
   laih anŭn čuh hĭ khul kơđông ƀing Babilon mơ̆n.
   Hloh kơ anŭn dơ̆ng, abih bang ƀing ling tơhan huĭ bra̱l biă mă yơh.”
33Anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang, jing Ơi Adai ƀing Israel, pơhiăp:
  “Plei phŭn Babilon jing kar hăng atur prăh pơdai
   jing ƀơi mông arăng juă pơdai ƀơi ñu yơh.
  Mông kiăng kơ hơpuă plei phŭn anŭn či truh tañ biă mă yơh.”

  34Ƀing ană plei mơ̆ng plei Yerusalaim iâu kwưh kơ Yahweh tui anai,
   “Nebukhadnezzar pơtao lŏn čar Babilon hơmâo lun ƀơ̆ng hĭ laih ƀing gơmơi,
   ñu hơmâo lui hĭ laih ƀing gơmơi amăng tơlơi rŭng răng,
   laih anŭn ñu hơmâo ngă laih kơ plei phŭn gơmơi jing hĭ kar hăng sa boh ge̱t hŏng.
  Kar hăng sa drơi klăn yơh ñu lun ƀơ̆ng hĭ mŭk dram gơmơi
   kiăng pơbă hĭ hlŭng ñu hăng khul gơnam ñu kiăng,
   laih anŭn ñu hơmâo kơhak kơčŭh tơbiă hơget gơnam ñu ƀu kiăng yơh.
  35Kwưh kiăng kơ tơlơi ƀrưh ƀai ngă laih kơ kơđeh asar gơmơi jing truh hĭ ƀơi ƀing Babilon.
   Kwưh kiăng tơlơi soh drah gơmơi lê̆ hĭ ƀơi ƀing lŏn čar Babilon.”
   Anŭn yơh jing tơlơi ƀing ană plei mơ̆ng plei Yerusalaim pơhiăp laih.
36Hơnŭn yơh, anai yơh jing tơlơi Yahweh laĭ glaĭ:
  “Anai nê, Kâo či pơgang brơi tơhơnal tơlơi gih yơh
   laih anŭn rŭ nua brơi kơ ƀing gih.
  Kâo či pơthu hĭ phŭn krong prŏng ñu
   laih anŭn ngă brơi kơ khul ia bluh ñu thu krô hĭ yơh.
  37Babilon či jing hĭ kar hăng ƀu̱r răm rai yơh,
   jing hĭ anih dŏ kơ khul asâo tan,
  laih anŭn jing hĭ kar hăng gơnam pơhuĭ hăng tơlơi arăng djik klao,
   jing anih ƀu hơmâo hlơi pô hơdip ôh.
  38Abih bang ƀing ană plei ñu le̱ng kơ pơgrao kar hăng rơmung dŭl anet,
   sĭt ƀing gơñu pơgrao kar hăng khul ană rơmung dŭl mơhao kơ mơnơ̆ng ƀơ̆ng yơh.
  39Samơ̆ tơdang ƀing gơñu mơhao biă mă,
   Kâo či pơkra sa tơlơi phet kơ ƀing gơñu
  laih anŭn ngă kơ ƀing gơñu măt hĭ yơh,
   kiăng kơ ƀing gơñu ur klao mơak.
   Giŏng anŭn, Kâo či brơi kơ ƀing gơñu pĭt hĭ hlŏng lar ƀu thâo mơdưh dơ̆ng tah.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
  40“Kâo či ba nao ƀing gơñu pơ anih pơdjai hlô mơnơ̆ng,
   kar hăng pơdjai khul ană triu,
   khul triu tơno laih anŭn khul bơbe kiăng kơ ƀơ̆ng yơh.”

  41Yahweh pơhiăp dơ̆ng kơ tơlơi Babilon tui anai, “Plei prŏng Sêsak jing plei abih bang lŏn tơnah pơư pơang,
   či tŭ mă tơlơi blah mă yơh!
  Plei phŭn Babilon anŭn či jing hĭ huĭ bra̱l biă mă
   amăng tŏng krah ƀing lŏn čar!
  42Ƀing ling tơhan rŏh ayăt ñu pơyơ̆ng đĭ gah ngŏ kơ plei phŭn Babilon kar hăng jơlah ia rơsĭ prŏng.
   Khul jơlah ia pơgrao anŭn či go̱m hĭ ñu yơh.
  43Khul plei pla ñu či jing hĭ rơngol,
   jing hĭ sa anih lŏn thu krô hăng tơdron ha̱r yơh,
   jing hĭ sa anih lŏn ƀu hơmâo hlơi pô ôh dŏ amăng ñu,
   laih anŭn ăt kŏn hơmâo hlơi pô rơbat găn anih anŭn lơi.
  44Kâo či pơkơhma̱l hĭ Bêl jing yang rơba̱ng lŏn čar Babilon
   laih anŭn ngă kơ ñu ô̱̆ tơbiă hơget gơnam ñu hơmâo lun ƀơ̆ng hĭ laih yơh.
  Tui anŭn, ƀing lŏn čar pơkŏn ƀu či kơnang kơ ñu dơ̆ng tah.
   Khul pơnăng plei phŭn Babilon či glưh hĭ yơh.

  45“Ơ ƀing ană plei Kâo hơi, tơbiă đuaĭ hĭ bĕ mơ̆ng ñu!
   Đuaĭ tañ bĕ kiăng kơ pơklaih hĭ gih pô!
   Đuaĭ hĭ bĕ mơ̆ng tơlơi hil nač ƀrŭk ƀrăk Yahweh.
  46Tơdang hơmư̆ hing kơ khul tơlơi huĭ anŭn amăng anih lŏn anai,
   anăm rơngiă hĭ tơlơi khĭn ôh, laih anŭn kŏn huĭ hyưt lơi.
  Sa tơlơi hing rŭng răng truh amăng thŭn anai,
   sĭt sa tơlơi hing pơkŏn či truh amăng thŭn pơanăp yơh,
  anŭn yơh jing khul tơlơi hing pơrŭng pơrăng amăng anih lŏn
   laih anŭn tơlơi hing pơtao anai pơkơdơ̆ng glaĭ hăng pơtao adih yơh.
  47Sĭt hrơi mông anŭn či truh yơh
   tơdang Kâo či pơkơhma̱l hĭ khul rup trah lŏn čar Babilon.
  Abih anih lŏn ñu či tŭ mlâo mlañ
   laih anŭn tơl abih bang ană plei ñu či rơbuh hĭ amăng anih lŏn gơñu anŭn yơh.
  48Giŏng anŭn, adai adih hăng lŏn tơnah anai laih anŭn abih bang tơlơi mơnơ̆ng amăng anŭn
   či ur dreo mơak mơai yơh yuakơ lŏn čar Babilon răm rai.
  Yuakơ pô pơrai či rai kơsung blah hĭ ñu
   mơ̆ng gah dư̱r yơh.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.

  49“Jing kar hăng lu mơnuih amăng abih bang lŏn tơnah yơh
   hơmâo lê̆ trŭn laih yuakơ lŏn čar Babilon hơmâo pơdjai hĭ laih ƀing gơñu,
   tui anŭn dêh čar Babilon khŏm rơbuh hĭ yơh yuakơ ñu pơdjai hĭ ƀing Israel.
  50Ơ ƀing tơklaih hĭ mơ̆ng đao gưm,
   đuaĭ hĭ mơtam bĕ laih anŭn anăm dŏ kơ̆ng kư dơ̆ng tah!
  Hơdơr bĕ kơ Kâo, Yahweh, wơ̆t tơdah ƀing gih dŏ amăng anih lŏn ataih,
   laih anŭn pơmĭn bĕ kơ plei gih Yerusalaim.

  51“Ƀing gih pơhiăp tui anai, ‘Ƀing gơmơi tŭ mlâo mlañ laih
   yuakơ ƀing gơmơi tŭ arăng djik djak kơ ƀing gơmơi.
  Sĭt ƀing gơmơi tŭ tơlơi hơtŏh djraĭ,
   yuakơ ƀing tuai jing ƀing ƀu rơgoh hơmâo mŭt laih
   pơ khul anih rơgoh hiam sang yang Yahweh.’ ”

  52Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Samơ̆ khul hrơi hlak truh,
   tơdang Kâo či pơkơhma̱l hĭ khul rup trah dêh čar Babilon,
   laih anŭn amăng djŏp anih lŏn ană plei ñu
   jing ƀing ruă rơka či pơkrao yơh.
  53Wơ̆t tơdah dêh čar Babilon dưi đĭ truh pơ rơngit adih
   laih anŭn ăt pơkơtang khul kơđông kơjăp glông ñu mơ̆n,
   Kâo či pơkiaŏ nao ƀing pô pơrai yơh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ñu.”
  Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.

  54“Hơmư̆ bĕ dơnai tơlơi čŏk hia đĭ rai mơ̆ng dêh čar Babilon,
   jing dơnai tơlơi răm rai prŏng
   mơ̆ng anih lŏn ƀing Babilon yơh.
  55Kâo, Yahweh, jĕ či pơrai hĭ dêh čar Babilon
   laih anŭn pơrơiăt hĭ dơnai ngañ bañ amăng plei phŭn ñu yơh.
  Ƀing rŏh ayăt tơlŭh rai kar hăng khul jơlah ia prŏng yơh.
   Tơlơi pơgrao khul asăp gơñu či rơuăng hyu yơh.
  56Pô pơrai či rai pơkơdơ̆ng glaĭ hăng dêh čar Babilon,
   laih anŭn či mă mơnă hĭ ƀing ling tơhan khĭn kơtang Babilon,
   hăng kơjŏh hĭ khul hraŏ gơñu yơh.
  Kâo, Yahweh, jing Ơi Adai, Pô rŭ nua,
   tui anŭn Kâo či kla glaĭ dêh čar Babilon bă blai yơh.
  57Kâo či ngă kơ ƀing khua moa ñu wơ̆t hăng ƀing rơgơi ñu măt hĭ
   laih anŭn ƀing khua tring ñu, ƀing khua mă bruă ñu laih anŭn ƀing ling tơhan khĭn kơtang ñu ăt kar kaĭ mơ̆n.
  Ƀing gơñu či pĭt hĭ hlŏng lar laih anŭn ƀu mơdưh dơ̆ng tah.”
   Anŭn yơh jing tơlơi Pơtao sĭt pơhiăp pơhaih laih, anăn Ñu jing Yahweh Dưi Kơtang.
58Anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang pơhiăp:
  “Pơnăng kơpa̱l plei phŭn Babilon či glưh trŭn hĭ
   laih anŭn khul amăng ja̱ng glông ñu arăng či čuh pơrai hĭ.
  Ƀing ană plei ñu pơgleh hĭ gơñu pô kơ tơlơi đôč đač yơh,
   laih anŭn gơnam tơngan gơñu pơkra anŭn kơnơ̆ng jing hĭ kar hăng djŭh kơ apui ƀơ̆ng đôč yơh.”
59Tơdang pô khua moa Serayah ană đah rơkơi Nêriyah, tơčô Mahsêyah, nao pơ dêh čar Babilon hrŏm hăng Zidkiyah pơtao lŏn čar Yudah amăng thŭn tal pă̱ pơtao Zidkiyah git gai wai lăng ƀing Yudah, kâo, Yirmeyah, pha brơi kơ ñu đơđa tơlơi pơđar yơh. 60Kâo hơmâo čih laih ƀơi tơkŭl hră kơ abih bang tơlơi truh sat či truh ƀơi dêh čar Babilon, jing abih bang tơlơi kâo čih pơruai kơ tơlơi dêh čar Babilon yơh. 61Kâo pơtă kơ Serayah tui anai, “Tơdang ih truh pơ dêh čar Babilon, brơi kơ ih đŏk kraih bĕ abih bang boh hiăp amăng tơkŭl hră anai. 62Giŏng anŭn, laĭ bĕ tui anai, ‘Ơ Yahweh ăh, Ih hơmâo laĭ laih Ih či pơrai hĭ anih lŏn anai, tơl ƀu hơmâo ôh mơnuih ƀôdah hlô mơnơ̆ng dưi hơdip amăng anŭn. Anih lŏn anai či jing hĭ rơngol hlŏng lar yơh.’ 63Tơdang ih đŏk pơgiŏng hĭ laih tơkŭl hră anai, akă bĕ sa boh pơtâo ƀơi tơkŭl hră anai laih anŭn glŏm trŭn bĕ pơ krong prŏng Huphrat. 64Giŏng anŭn, laĭ bĕ tui anai, ‘Ăt tui anŭn mơ̆n, dêh čar Babilon či kơdram hĭ ƀu dưi tơgŭ đĭ dơ̆ng tah yuakơ tơlơi truh sat Kâo či brơi rai ƀơi ñu yơh.’ ”
 Khul boh hiăp pô pơala Yirmeyah jưh hĭ ƀơi anai yơh.