2

Đa-vít Khuyên Dặn Sa-lô-môn

1Khi ngày Đa-vít qua đời đến gần, Đa-vít khuyên dặn Sa-lô-môn, con trai của mình rằng: 2“Cha sắp đi vào con đường mọi người trên đất phải đi qua. Vậy con hãy mạnh mẽ, hãy chứng tỏ con là một bậc trượng phu, 3và hãy để ý kỹ những gì CHÚA là Đức Chúa Trời của con đòi hỏi nơi con. Con hãy đi trong đường lối Ngài, vâng giữ những mạng lịnh, điều răn, luật pháp và quy tắc của Ngài như đã chép trong kinh luật Môi-se, để con được thịnh vượng trong mọi việc con làm và nơi nào con đi đến, 4hầu cho Chúa sẽ giữ lời hứa của Ngài đã hứa với cha rằng: ‘Nếu hậu tự của ngươi biết cẩn trọng sống trước mặt Ta; nếu chúng hết lòng và hết tâm hồn mà bước đi cách trung thành trước mặt Ta, thì ngươi sẽ không lo có một người kế vị ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’
5Ngoài ra, con cũng biết những việc Giô-áp con trai Giê-ru-a đã làm cho cha, thế nào hắn đã đối với hai vị chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, tức là Áp-ne con trai Nê-rơ và A-ma-sa, con trai Giê-the. Hắn đã giết hai người ấy, làm đổ máu họ ra trong thời bình như thể ngoài trận mạc. Hắn đã làm vấy máu chiến trường nơi đai lưng của hắn và trên giày của hắn mang nơi chân. 6Con hãy dựa vào sự khôn ngoan của con mà xử sự trong việc nầy, và đừng để đầu bạc của hắn bình an đi xuống âm phủ.
7Con hãy đối xử tử tế với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át; hãy để họ ăn đồng bàn với con. Vì họ đã đứng bên cha, khi cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm, anh con.
8Con cũng có Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim. Hắn đã lấy những lời độc hại rủa sả cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im, nhưng khi hắn xuống đón cha ở bờ sông Giô-đanh, cha có nhân danh Chúa mà thề với hắn rằng: ‘Ta sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ 9Nhưng con chớ coi hắn là vô tội, vì con khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho hắn phải mang đầu bạc dính máu mà xuống âm phủ.”

Đa-vít Qua Đời

10Rồi Đa-vít an giấc cùng các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. 11Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Vua trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. 12Vậy Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và vương quốc của Sa-lô-môn được thiếp lập vững vàng.

Sa-lô-môn Củng Cố Vương Quyền

13A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít đến gặp Bát-sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà hỏi: “Ngươi đến có ý bình an chăng?”
 A-đô-ni-gia đáp: “Vâng, bình an.”
14Rồi nói tiếp: “Xin cho tôi có một lời thưa cùng bà.”
 Bà đáp: “Hãy nói đi.”
15A-đô-ni-gia nói: “Chắc bà cũng biết là vương quốc nầy đáng lý thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong đợi tôi trị vì, nhưng vương quốc đã quay trở thành của em tôi, ấy là do nơi Chúa mà thôi. 16Nhưng bây giờ tôi có một điều muốn xin bà, mong bà đừng từ chối.”
 Bà đáp: “Hãy nói đi.”
17A-đô-ni-gia nói, “Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn, vì vua chẳng từ chối với bà điều gì, xin vua ban cho tôi A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ.”
18Bát-sê-ba đáp: “Được, ta sẽ nói với vua cho ngươi.”
19Bát-sê-ba đến gặp vua Sa-lô-môn để xin vua giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và cúi đầu trước mặt bà; đoạn vua ngồi xuống trên ngai, rồi truyền đem một ngai nữa cho thái hậu, và bà ngồi bên phải vua.
20Bấy giờ bà nói: “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.”
 Vua đáp: “Thưa mẹ, xin mẹ hãy nói, con sẽ không từ chối đâu.”
21Bà nói: “Hãy ban A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, anh con.”
22Nhưng vua Sa-lô-môn đáp với thái hậu rằng: “Tại sao mẹ lại xin A-bi-sắc, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ không xin cả vương quốc nầy cho anh ấy luôn. Vì anh ấy là anh của con mà. Sao mẹ không xin cho anh ấy thầy tế lễ A-bia-tha và Giô-áp, con trai Giê-ru-a luôn một thể đi.”
23Bấy giờ vua Sa-lô-môn nhân danh Chúa mà thề rằng: “Nguyện Chúa đối xử với tôi, nguyện Ngài phạt tôi cách nặng nề, nếu A-đô-ni-gia không bị thiệt mạng vì lời yêu cầu nầy. 24Vậy bây giờ, tôi nhân danh Chúa hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi được vững vàng, đã đặt tôi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, và xây dựng một nhà cho tôi, mà nói rằng, A-đô-ni-gia phải bị xử tử hôm nay.” 25Vua Sa-lô-môn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Bê-na-gia đến giết A-đô-ni-gia và A-đô-ni-gia chết.
26Vua truyền cho thầy tế lễ A-bia-tha: “Hãy về A-na-tốt, nơi sản nghiệp ngươi, vì ngươi đáng chết. Nhưng hôm nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng rương của Chúa Hằng Hữu trước mặt Đa-vít, cha ta, và vì ngươi có chia sẻ những khổ cực mà cha ta đã gánh chịu.” 27Vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha đi, không cho làm thầy tế lễ truớc mặt Chúa nữa, hầu cho lời của Chúa đã phán tại Si-lô về gia tộc của thầy tế lễ Hê-li được ứng nghiệm.
28Khi tin nầy đến tai Giô-áp, vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, dù ông không ủng hộ Áp-sa-lôm, thì ông liền trốn đến Đền Tạm của Chúa và nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. 29Người ta tâu với vua Sa-lô-môn rằng: “Giô-áp đã trốn đến Đền Tạm của Chúa, và kìa ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ.”
 Sa-lô-môn truyền cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa rằng: “Hãy đi, giết hắn đi.”
30Vậy Bê-na-gia đến Đền Tạm của Chúa và nói với ông: “Vua truyền rằng: Ông hãy ra khỏi nơi đó.”
 Nhưng Giô-áp đáp: “Không. Ta sẽ chết ở đây.”
 Bê-na-gia về tâu lại cho vua: “Tôi có nói với Giô-áp thế nầy, và ông ấy đã đáp lại thế kia.”
31Vua phán: “Hãy làm y như ông ấy đã nói. Hãy giết ông ấy và đem chôn ông ấy đi. Như thế ta và nhà cha ta sẽ được cất khỏi máu vô tội mà Giô-áp đã làm chảy ra vô cớ. 32Chúa sẽ báo trả những hành động đẫm máu lại trên đầu ông ấy. Bởi vì, trong khi cha ta là Đa-vít không biết, thì ông ấy đã tấn công và giết chết hai người ngay lành và tốt hơn ông ấy. Đó là Áp-ne, con trai Nê-rơ, chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. 33Vậy máu của họ sẽ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu của dòng dõi ông ấy đời đời; nhưng Đa-vít và dòng dõi người, cùng nhà người, và ngôi nước người sẽ được bình an từ nơi Chúa mãi mãi.”
34Vậy Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đi lên, đánh hạ Giô-áp và giết chết ông ta. Người ta chôn ông ta tại nhà ông, gần sa mạc. 35Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội thay cho Giô-áp, và vua cũng đặt thầy tế lễ Xa-đốc thay thế chức vụ của A-bia-tha.
36Sau đó vua truyền cho Si-mê-i vào chầu và phán: “Hãy cất cho ngươi một cái nhà trong Giê-ru-sa-lem và ở đó. Chớ đi ra khỏi đó để đi đây đi đó. 37Vì ngươi khá biết rằng hễ ngày nào ngươi ra khỏi đó mà vượt qua khỏi khe Kít-rôn thì ngươi chắc sẽ chết. Máu của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.”
38Si-mê-i tâu với vua: “Lời của hoàng thượng thật chí lý. Hoàng thượng là chúa của hạ thần đã truyền dạy thế nào, hạ thần sẽ làm y như vậy.” Vậy Si-mê-i sống ở Giê-ru-sa-lem lâu ngày.
39Nhưng sau ba năm, có hai đầy tớ của Si-mê-i bỏ trốn đến A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta báo cho Si-mê-i rằng: “Kìa, các đầy tớ của ông đang ở tại Gát.” 40Si-mê-i liền chỗi dậy, thắng lừa, và đi đến Gát, gặp A-kích để tìm các đầy tớ của ông. Vậy Si-mê-i đi đến Gát và bắt các đầy tớ của ông về.
41Khi vua Sa-lô-môn được tâu rằng Si-mê-i đã rời Giê-ru-sa-lem đi đến Gát và đã trở về, 42vua cho gọi Si-mê-i vào và nói với ông: “Có phải ta đã bắt ngươi thề trước mặt Chúa và cảnh cáo ngươi rằng: ‘Ngày nào ngươi rời khỏi Giê-ru-sa-lem mà đi đây đi đó thì ngươi chắc sẽ chết sao?’ Ngươi đã nói với ta rằng: ‘Lời vua nói rất đúng. Tôi sẽ tuân theo.’ 43Thế tại sao ngươi không vâng giữ lời ngươi đã thề trước mặt CHÚA và tuân theo lệnh ta đã truyền cho ngươi?”
44Vua lại nói tiếp với Si-mê-i: “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng đã quá rõ những việc ác mà ngươi đã làm cho Đa-vít, cha ta. Bây giờ Chúa sẽ báo trả cho ngươi những việc ác ngươi đã làm. 45Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước, và ngôi của Đa-vít sẽ tồn tại cách vững bền trước mặt CHÚA đến đời đời.”
46Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Ông ấy đi đánh hạ Si-mê-i và Si-mê-i chết.
 Bấy giờ vương quốc được thiết lập vững vàng trong tay Sa-lô-môn.

2

Nau Y-David Ntĭnh Ma Y-Salômôn

1Tơlah nar Y-David lôch jêh, păng khĭt dăch jêh, păng ntĭnh ma Y-Salômôn kon buklâu păng, lah: 2"Gâp lĕ dăch dâk hăn trong lĕ rngôch bu nuyh. Ăn may jêng katang jêh ri mpơl may nơm jêng du huê bunuyh kôranh! 3Djôt prăp hom nau Yêhôva Brah Ndu may ntăm, chuat tâm trong păng, jêh ri djôt prăp nau vay dôih păng, nau păng ntrŭnh, nau păng phat dôih, jêh ri nau păng mbơh, tĭng nâm chih jêh tâm nau vay Y-Môis, gay ăn may dơi chăt hao tâm lĕ nau may ƀư jêh ri ta ntŭk may hăn; 4gay ma Yêhôva dơi ăn n'hêl nanê̆ nau păng ngơi jêh di ma gâp, lah: "Tơlah phung kon buklâu may njrăng ma trong khân păng gay hăn panăp gâp tâm nau răp jăp ma lĕ nuih n'hâm, lĕ huêng khân păng, pôri may mâu mra pưt ôh du huê buklâu thoi ntŭk may ta sưng hađăch phung Israel." 5May hŏ gĭt đŏng ma nau Y-Jôap, kon buklâu Y-Sêruia ƀư jêh ma gâp, nau păng hŏ ƀư đah bar hê kôranh phung Israel, Y-Apner kon buklâu Y-Ner, jêh ri Y-Amasa, kon buklâu Y-Jêther. Păng hŏ nkhĭt bar hê nây, ƀư pling mham khân ôbăl dôl đăp mpăn nâm bu dôl geh nau tâm lơh. Păng hŏ ƀư pling mham bu nôk tâm lơh krêp ta rse bŭt păng vân, jêh ri ta ntâu jot păng ta jâng. 6Pôri may ƀư tĭng nâm nau gĭt mĭn may tâm nau kan aơ, jêh ri lơi ta ăn bôk mbra (ndra) păng đăp mpăn hăn jŭr tâm Ƀon Phung Khĭt.
7Ăn may gŭ ngao hom ma nau ueh đah phung kon buklâu Y-Barsilai, bunuyh Galaat; ăn hom khân păng sông nsum du sưng n'hanh may. Yorlah khân păng hŏ ƀư nau ueh ma gâp, dôl nôk gâp nchuăt du bơh Y-Apsalôm, nâu may.
8May tâm ban đŏng geh Y-Simei, kon bu klâu Y-Gêra, phung Benjamin, ƀon Bahurim. Păng hŏ thăm gâp ma nau rak rtăp tâm nar gâp hăn rlet ma ƀon Mahanaim, ƀiălah tơlah păng trŭnh văch tâm mâp đah gâp ta dak krong Yurdan, gâp geh ma amoh Yêhôva ŭch ton sơm ma păng pô aơ: "Gâp mâu mra nkhĭt ôh may ma đao!
9Ƀiălah may lơi ta uănh ôh păng mâu geh nau tih, yorlah may jêng du huê gĭt mĭn jêh ri blau mâm jêng nau mra ƀư ma păng. May ƀư hom ma păng jêh ri ăn păng leo bôk mbra krêp mham trŭnh tâm Ƀon Phung Khĭt."

Nau Y-David Khĭt

10Jêh nây Y-David khĭt hăn gŭ ndrel ma phung chô che păng, jêh ri bu tâp păng tâm ƀon Y-David. 11Rnôk Y-David chiă uăch phung Israel geh puăn jê̆t năm; păng chiă uănh ta ƀon Hêbron pơh năm jêh ri pe jê̆t ma pe năm ta ƀon Yêrusalem.
12Pônây Y-Salômôn gŭ ta sưng hađăch mbơ̆ păng, jêh ri ƀon bri hađăch păng nâp ngăn. Y-Salômôn Ƀư Nâp Ƀon Bri Hađăch Păng.
13Y-Adônija, kon buklâu H'Hagit hăn ma H'Batsêba, mê̆ Y-Salômôn. Jêh ri Y-Batsêba ôp păng: "May văch tât ma nau đăp mpăn lĕ?" Păng plơ̆ lah: "Ma nau đăp mpăn đŏng." 14Jêh nây ngơi tay: "Gâp geh du nau ŭch lah ma ay." Păng lah: "Ngơi hom"
15Y-Adônija ngơi: "Ay hŏ gĭt đŏng ma ƀon bri hađăch aơ jêng ndơ gâp, jêh ri lĕ rngôch phung Israel gŭ kâp gâp dadê chiă uănh, ƀiălah ƀon bri hađăch hŏ rlơ̆ jêng nkhơng ndơ oh gâp, nây jêng tă bơh Yêhôva dơm. 16Ƀiălah aƀaơ gâp geh du nau ŭch dăn ma ay; gay ma ay lơi ta dun.
 "Păng lah: "Ngơi hom."
17Y-Adônija ngơi: "Gâp dăn ma ay sâm ngơi an ma Hađăch-Salômôn-păng mâu mra dun ôh ma ay-ăn ma gâp H'Abisak bu ur Sunamit jêng ur gâp." 18H'Batsêba lah:
  "Ueh jêh, gâp mra ngơi ma hađăch nau may ŭch"
19H'Batsêba hăn mâp Hađăch-Salômôn gay sâm dăn ma hađăch ăn yor nau Y-Adônija. Hađăch dâk gay tâm mâp đah ôbăl, jêh ri kŭnh mbah panăp ôbăl; pônây, păng gŭ ta sưng hađăch păng, jêh ta nây păng ăn bu leo rnơl gŭ ma mê̆ hađăch, jêh ri ôbăl gŭ mpeh pa ma păng. 20Nôk nây ôbăl lah: "Gâp geh du nau jê̆ ŭch dăn ma may; gay ma may lơi dĭng dun ôh" Hađăch plơ̆ lah: "Hơi mê̆, dăn hom gâp mâu mra dun ôh."
21Ôbăl lah: "Ăn H'Abisak bu ur Sanamit jêng ur ma Y-Adônija, nâu may."
22Ƀiă lah Hađăch Salômôn plơ̆ lah ma mê̆ păng: "Mâm ay dăn ăn H'Abisak bu ur Sunamit jêng ur ma Y-Adônija? Mâm dĭng ay mâu dăn ƀon bri hađăch aơ ăn ma păng; yorlah păng jêng nâu gâp. Mâm dĭng ay mâu dăn ăn păng kôranh ƀư brah Y-Abiathar jêh ri Y-Jôap, kon buklâu Y-Sêruia mpeh ma păng." 23Nôk nây, Hađăch Salômôn ton sơm ma amoh Yêhôva, lah: "Ăn Yêhôva ƀư ma gâp tĭng nâm păng ŭch tơlah Y-Adônija mâu nkhĭt lơi ôh păng yor ma nau dăn aơ.
24Yor nây aƀaơ ri, gâp tâm amoh Yêhôva gŭ rêh, Nơm hŏ njêng jêh gâp dơi nâp, hŏ dơm gâp ta sưng Hađăch David, mbơ̆ gâp, jêh ri njêng jêh du mlâm ngih ma gâp, tĭng nâm păng hŏ ton, bu mra nkhĭt Y-Adônija nar aơ." 25Hađăch Salômôn ntrŭnh nau lah ma Y-Bênaya, kon bu klâu Y-Jêhôida. Ăn Y-Bênaya hăn nkhĭt Y-Adônija jêh ri păng khĭt. 26Hađăch lah ma kôranh ƀư brah Y-Abiathar: "Hăn sĭt hom ma ƀon Anathôt, chăm ntŭk ndrâm may nơm, yorlah may lĕ di ma nau khĭt. Ƀiălah nar aơ gâp mâu nkhĭt ôh may, yorlah may tung hip kôranh Brah Yêhôva ta năp mbơ̆ gâp, jêh ri may lĕ tă mâp geh ndrel lĕ rngôch nau rêh ni mbơ̆ gâp hŏ dơn."
27Pôri, Y-Salômôn mprơh lơi Y-Abiathar, mâu hôm kan kôranh ƀư brah ta năp măt Yêhôva đŏng ôh, gay ăn di ngăn nau Yêhôva ngơi jêh ma noi deh kôranh ƀư brah Y-Êli ta ƀon Silô. 28Tơlah nau tâm nkoch aơ tăng tôr Y-Jôap yorlah Y-Jôap rđâng an ma Y-Adônija, nđâp tơlah păng mâu rđâng an ôh ma Y-Apsalôm-Y-Jôap du rlet ma ngih bok Yêhôva jêh ri kuăn ta nke nơng ƀư brah. 29Bu mbơh ma Hađăch-Salômôn:
 "Y-Jôap du jêh rlet ma ngih bok Yêhôva, jêh ri, ri păng dôl kuăn nke gŭ êp ta meng nơng." Y-Salômôn lah ma Y-Bênaya, kon buklâu Y-Jêhôida pô aơ: "Hăn hom, nkhĭt lơi păng"
30Pô nây Y-Bênaya hăn tât Ngih bok Yêhôva jêh ri lah ma păng: "Hađăch ntĭnh, Luh hom." Ƀiălah Y-Jôap lah: "Mâu ôh, gâp mra khĭt ta aơ." Pôri Y-Bênaya plơ̆ mbơh tay ma hađăch, lah: "Pô aơ nau gâp lah ma Y-Jôap, jêh ri pre (păng) nkhơng lah trong ri." 31Hađăch lah: "Ƀư tĭng nâm nau păng nơm hŏ lah. Nkhĭt păng jêh ri leo tâp lơi păng; tâm ban pô nây gâp jêh ri ngih mbơ̆ gâp mra dơi jut nau tih pling mham Y-Jôap hoch mham mâu geh ôh geh nau tih. 32Yêhôva mra har plơng ƀư ăn păng pling mham ta kalơ bôk păng nơm. Yorlah, dôl mbơ̆ gâp jêng Y-David mâu gĭt ôh păng hŏ rduh lơh jêh ri nkhĭt bar hê buklâu sŏng ngăn jêh ri ueh lơn ma păng. Nây jêng Y-Apner, kon buklâu Y-Ner, kôranh tahan phung Israel; jêh ri Y-Amasa, kon buklâu Y-Jêther, kôranh tahan phung Yuda. 33Pônây mham khân ôbăl pling tay ta kalơ bôk Y-Jôap jêh ri ta kalơ bôk phung kon sau păng ƀaƀơ n'ho ro; ƀiălah Y-David jêh ri phung kon sau păng, ma ngih păng, jêh ri ma sưng hađăch păng mra dơi đăp mpăn tă bơh Yêhôva mro mrăng."
34Pônây, Y-Bênaya kon buklâu Y-Jêhôida, hăn hao, sreh Y-Jôap jêh ri nkhĭt lơi păng. Bu tâp brôi păng ta ngih păng nơm, dăch bri rdah. 35Hađăch dơm kan ma Y-Bênaya, kon buklâu Y-Jêhôida, jêng kôranh tahan ntrok Y-Jôap; jêh ri hađăch dơm kan ma Y-Sadôk kôranh ƀư brah ntrok Y-Abithar. 36Jêh tanây hađăch prơh bu hăn kuăl Y-Simei jêh ri lah ma păng: "Ăn may ƀư ngih may nơm tâm ƀon Yêrusalem, jêh ri gŭ ta nây.
 Lơi ta du bơh ntŭk nây gay hăn ta aơ ta ri.
37Yorlah ăn may gĭt ta nar may du luh tăbơh ntŭk nây jêh ri rgăn dak n'hor sêdrôn, nanê̆ ngăn may mra khĭt. Mham may mra pling ta kalơ bôk may nơm."
38Y-Simei lah ma hađăch: "Nau may lah jêng di ueh ngăn; tĭng nâm nau hađăch kôranh gâp lah jêh, tâm ban pônây lĕ oh mon may mra ƀư." Pô nây Y-Sêmei gŭ tâm ƀon Yêrusalem jŏ nar." 39Ƀiălah lôch pe năm, geh bar hê phung dĭk Y-Simei nchuăt du rlet ma Y-Akis, kon buklâu Y-Maka, hađăch ƀon Gat. Bu mbơh ma Y-Simei pô aơ:
 "Ta ri, phung dĭk may dôl gŭ ta ƀon Gat."
40Y-Simei dâk ro, dăp ưn seh bri păng, jêh ri hăn tât ƀon Gat, mâp Y-Akis gay hăn joi phung dĭk păng. Pônây Y-Simei hăn tât ƀon Gat jêh ri djôt sĭt mplơ̆ phung dĭk păng. 41Tơlah Hađăch Salômôn tăng bu mbơh ma Y-Simei luh jêh tă bơh ƀon Yêrusalem hăn rlet ma ƀon Gat jêh ri plơ̆ sĭt tay jêh,
42hađăch prơh bu hăn kuăl Y-Simei jêh ri lah: Di lĕ gâp hŏ đă may ton jêh ta năp măt Yêhôva, jêh ri ntĭnh dŭt katang ma may, lah: "Moh nar may luh bơh ƀon Yêrusalem gay hăn ta aơ ta ri nanê̆ ngăn may mra khĭt?' May hŏ lah ma gâp pô aơ:
  'Nau hađăch lah di ngăn. Gâp mra tông ngăn.'
43Pô nây mâm dĭng may mâu djôt prăp nau may ton sơm ma Yêhôva jêh ri nau gâp hŏ lah jêh ma may?"
44Hađăch ngơi tay ma Y-Simei: "May hŏ gĭt tâm nuih n'hâm may nơm rah vah jêh lĕ nau mhĭk may hŏ ƀư ma Y-David, mbơ̆ gâp. Aƀaơ ri Yêhôva mra har plơng ma may lĕ nau mhĭk may hŏ ƀư. 45Ƀiă lah Hađăch Salômôn mra geh nau mŏt ton, jêh ri sưng hađăch Y-David mra ăn nâp ta năp măt Yêhôva tât n'ho ro."
46Jêh nây, hađăch ntĭnh ma Y-Bênaya kon bu klâu Y-Jêhôida, jêh ri păng hăn sreh nkhĭt Y-Simei, jêh ri Y-Simei khĭt.
 Nôk nây ƀon bri hađăch jêng nâp tâm ti Y-Salômôn.