2

Đa-vít Khuyên Dặn Sa-lô-môn

1Khi ngày Đa-vít qua đời đến gần, Đa-vít khuyên dặn Sa-lô-môn, con trai của mình rằng: 2“Cha sắp đi vào con đường mọi người trên đất phải đi qua. Vậy con hãy mạnh mẽ, hãy chứng tỏ con là một bậc trượng phu, 3và hãy để ý kỹ những gì CHÚA là Đức Chúa Trời của con đòi hỏi nơi con. Con hãy đi trong đường lối Ngài, vâng giữ những mạng lịnh, điều răn, luật pháp và quy tắc của Ngài như đã chép trong kinh luật Môi-se, để con được thịnh vượng trong mọi việc con làm và nơi nào con đi đến, 4hầu cho Chúa sẽ giữ lời hứa của Ngài đã hứa với cha rằng: ‘Nếu hậu tự của ngươi biết cẩn trọng sống trước mặt Ta; nếu chúng hết lòng và hết tâm hồn mà bước đi cách trung thành trước mặt Ta, thì ngươi sẽ không lo có một người kế vị ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’
5Ngoài ra, con cũng biết những việc Giô-áp con trai Giê-ru-a đã làm cho cha, thế nào hắn đã đối với hai vị chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, tức là Áp-ne con trai Nê-rơ và A-ma-sa, con trai Giê-the. Hắn đã giết hai người ấy, làm đổ máu họ ra trong thời bình như thể ngoài trận mạc. Hắn đã làm vấy máu chiến trường nơi đai lưng của hắn và trên giày của hắn mang nơi chân. 6Con hãy dựa vào sự khôn ngoan của con mà xử sự trong việc nầy, và đừng để đầu bạc của hắn bình an đi xuống âm phủ.
7Con hãy đối xử tử tế với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át; hãy để họ ăn đồng bàn với con. Vì họ đã đứng bên cha, khi cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm, anh con.
8Con cũng có Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim. Hắn đã lấy những lời độc hại rủa sả cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im, nhưng khi hắn xuống đón cha ở bờ sông Giô-đanh, cha có nhân danh Chúa mà thề với hắn rằng: ‘Ta sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ 9Nhưng con chớ coi hắn là vô tội, vì con khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho hắn phải mang đầu bạc dính máu mà xuống âm phủ.”

Đa-vít Qua Đời

10Rồi Đa-vít an giấc cùng các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. 11Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Vua trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. 12Vậy Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và vương quốc của Sa-lô-môn được thiếp lập vững vàng.

Sa-lô-môn Củng Cố Vương Quyền

13A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít đến gặp Bát-sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà hỏi: “Ngươi đến có ý bình an chăng?”
 A-đô-ni-gia đáp: “Vâng, bình an.”
14Rồi nói tiếp: “Xin cho tôi có một lời thưa cùng bà.”
 Bà đáp: “Hãy nói đi.”
15A-đô-ni-gia nói: “Chắc bà cũng biết là vương quốc nầy đáng lý thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong đợi tôi trị vì, nhưng vương quốc đã quay trở thành của em tôi, ấy là do nơi Chúa mà thôi. 16Nhưng bây giờ tôi có một điều muốn xin bà, mong bà đừng từ chối.”
 Bà đáp: “Hãy nói đi.”
17A-đô-ni-gia nói, “Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn, vì vua chẳng từ chối với bà điều gì, xin vua ban cho tôi A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ.”
18Bát-sê-ba đáp: “Được, ta sẽ nói với vua cho ngươi.”
19Bát-sê-ba đến gặp vua Sa-lô-môn để xin vua giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và cúi đầu trước mặt bà; đoạn vua ngồi xuống trên ngai, rồi truyền đem một ngai nữa cho thái hậu, và bà ngồi bên phải vua.
20Bấy giờ bà nói: “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.”
 Vua đáp: “Thưa mẹ, xin mẹ hãy nói, con sẽ không từ chối đâu.”
21Bà nói: “Hãy ban A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, anh con.”
22Nhưng vua Sa-lô-môn đáp với thái hậu rằng: “Tại sao mẹ lại xin A-bi-sắc, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ không xin cả vương quốc nầy cho anh ấy luôn. Vì anh ấy là anh của con mà. Sao mẹ không xin cho anh ấy thầy tế lễ A-bia-tha và Giô-áp, con trai Giê-ru-a luôn một thể đi.”
23Bấy giờ vua Sa-lô-môn nhân danh Chúa mà thề rằng: “Nguyện Chúa đối xử với tôi, nguyện Ngài phạt tôi cách nặng nề, nếu A-đô-ni-gia không bị thiệt mạng vì lời yêu cầu nầy. 24Vậy bây giờ, tôi nhân danh Chúa hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi được vững vàng, đã đặt tôi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, và xây dựng một nhà cho tôi, mà nói rằng, A-đô-ni-gia phải bị xử tử hôm nay.” 25Vua Sa-lô-môn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Bê-na-gia đến giết A-đô-ni-gia và A-đô-ni-gia chết.
26Vua truyền cho thầy tế lễ A-bia-tha: “Hãy về A-na-tốt, nơi sản nghiệp ngươi, vì ngươi đáng chết. Nhưng hôm nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng rương của Chúa Hằng Hữu trước mặt Đa-vít, cha ta, và vì ngươi có chia sẻ những khổ cực mà cha ta đã gánh chịu.” 27Vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha đi, không cho làm thầy tế lễ truớc mặt Chúa nữa, hầu cho lời của Chúa đã phán tại Si-lô về gia tộc của thầy tế lễ Hê-li được ứng nghiệm.
28Khi tin nầy đến tai Giô-áp, vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, dù ông không ủng hộ Áp-sa-lôm, thì ông liền trốn đến Đền Tạm của Chúa và nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. 29Người ta tâu với vua Sa-lô-môn rằng: “Giô-áp đã trốn đến Đền Tạm của Chúa, và kìa ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ.”
 Sa-lô-môn truyền cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa rằng: “Hãy đi, giết hắn đi.”
30Vậy Bê-na-gia đến Đền Tạm của Chúa và nói với ông: “Vua truyền rằng: Ông hãy ra khỏi nơi đó.”
 Nhưng Giô-áp đáp: “Không. Ta sẽ chết ở đây.”
 Bê-na-gia về tâu lại cho vua: “Tôi có nói với Giô-áp thế nầy, và ông ấy đã đáp lại thế kia.”
31Vua phán: “Hãy làm y như ông ấy đã nói. Hãy giết ông ấy và đem chôn ông ấy đi. Như thế ta và nhà cha ta sẽ được cất khỏi máu vô tội mà Giô-áp đã làm chảy ra vô cớ. 32Chúa sẽ báo trả những hành động đẫm máu lại trên đầu ông ấy. Bởi vì, trong khi cha ta là Đa-vít không biết, thì ông ấy đã tấn công và giết chết hai người ngay lành và tốt hơn ông ấy. Đó là Áp-ne, con trai Nê-rơ, chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. 33Vậy máu của họ sẽ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu của dòng dõi ông ấy đời đời; nhưng Đa-vít và dòng dõi người, cùng nhà người, và ngôi nước người sẽ được bình an từ nơi Chúa mãi mãi.”
34Vậy Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đi lên, đánh hạ Giô-áp và giết chết ông ta. Người ta chôn ông ta tại nhà ông, gần sa mạc. 35Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội thay cho Giô-áp, và vua cũng đặt thầy tế lễ Xa-đốc thay thế chức vụ của A-bia-tha.
36Sau đó vua truyền cho Si-mê-i vào chầu và phán: “Hãy cất cho ngươi một cái nhà trong Giê-ru-sa-lem và ở đó. Chớ đi ra khỏi đó để đi đây đi đó. 37Vì ngươi khá biết rằng hễ ngày nào ngươi ra khỏi đó mà vượt qua khỏi khe Kít-rôn thì ngươi chắc sẽ chết. Máu của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.”
38Si-mê-i tâu với vua: “Lời của hoàng thượng thật chí lý. Hoàng thượng là chúa của hạ thần đã truyền dạy thế nào, hạ thần sẽ làm y như vậy.” Vậy Si-mê-i sống ở Giê-ru-sa-lem lâu ngày.
39Nhưng sau ba năm, có hai đầy tớ của Si-mê-i bỏ trốn đến A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta báo cho Si-mê-i rằng: “Kìa, các đầy tớ của ông đang ở tại Gát.” 40Si-mê-i liền chỗi dậy, thắng lừa, và đi đến Gát, gặp A-kích để tìm các đầy tớ của ông. Vậy Si-mê-i đi đến Gát và bắt các đầy tớ của ông về.
41Khi vua Sa-lô-môn được tâu rằng Si-mê-i đã rời Giê-ru-sa-lem đi đến Gát và đã trở về, 42vua cho gọi Si-mê-i vào và nói với ông: “Có phải ta đã bắt ngươi thề trước mặt Chúa và cảnh cáo ngươi rằng: ‘Ngày nào ngươi rời khỏi Giê-ru-sa-lem mà đi đây đi đó thì ngươi chắc sẽ chết sao?’ Ngươi đã nói với ta rằng: ‘Lời vua nói rất đúng. Tôi sẽ tuân theo.’ 43Thế tại sao ngươi không vâng giữ lời ngươi đã thề trước mặt CHÚA và tuân theo lệnh ta đã truyền cho ngươi?”
44Vua lại nói tiếp với Si-mê-i: “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng đã quá rõ những việc ác mà ngươi đã làm cho Đa-vít, cha ta. Bây giờ Chúa sẽ báo trả cho ngươi những việc ác ngươi đã làm. 45Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước, và ngôi của Đa-vít sẽ tồn tại cách vững bền trước mặt CHÚA đến đời đời.”
46Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Ông ấy đi đánh hạ Si-mê-i và Si-mê-i chết.
 Bấy giờ vương quốc được thiết lập vững vàng trong tay Sa-lô-môn.

2

Tavi nkaw lug rua Xalaumoo

1Thaus ze lub swjhawm kws Tavi yuav taag swm neej mas nwg nkaw lug rua nwg tug tub Xalaumoo tas, 2“Kuv saamswm yuav dua moog ib yaam le ib tsoom tuabneeg nplajteb. Koj ca le ua khov kho yaam le ib tug txwvneej yawg, 3hab tuav rawv tej lug kws koj tug Vaajtswv Yawmsaub has, ua lub neej lawv le nwg txujkev, hab tuav rawv nwg tej kaab ke hab nwg tej lug nkaw hab nwg tej kevcai hab nwg tej lug qha lawv le kws tub muab sau ca rua huv Mauxe phoo kevcai, sub koj txhad le vaam meej rua txhua yaam num kws koj ua hab rua txhua qhov kws koj moog, 4mas Yawmsaub txhad ua lawv le nwg tej lug kws nwg has ntswg txug kuv tas, ‘Yog koj tej tub ki ceev faaj rua txhua txujkev kws puab ua hab ua puab lub neej xwb rua ntawm kuv lub xubndag kawg sab kawg ntsws, mas koj caaj ceg yuav tsw tu ncua tug txwvneej kws nyob sau cov Yixayee lub zwm txwv.’
5“Dua ib qho koj yeej paub tas Xeluya tug tub Yau‑a tau ua le caag rua kuv lawm. Koj paub tas nwg ua le caag rua ob tug thawj kws kaav Yixayee cov tub rog, yog ua rua Naw tug tub Anaw hab ua rua Yethaw tug tub Amaxa kws nwg ca le muab tua rua thaus lub tebchaws tug lawd, pauj taub tej ntshaav kws lug rua thaus kws tseed ua rog. Nwg muab tej ntshaav kws tsw txhum hov ua tso rua sau nwg txuj hlaab ntawm duav hab tso rua sau nwg txhais khau ntawm nwg kwtaw. 6Vem le nuav ca le ua lawv le koj tug tswvyim pum zoo, tsw xob ca nwg tug dawb hau moog ua sab tug yeeg rua huv tub tuag teb. 7Ca le ua zoo rua Npaxilai kws yog tuabneeg Kile‑a cov tub, kheev puab nrug koj koom rooj noj mov ua ke, tsua qhov thaus kws kuv tswv koj tug tijlaug Axaloo moog puab tau ua zoo kawg rua kuv ib yaam le ntawd. 8Muaj Kela tug tub Sime‑i kws yog xeem Npeeyamee kws nyob huv lub moos Npahuli kuj nrug koj nyob ua ke nuav. Nub kws kuv moog rua lub moos Mahana‑i mas nwg tshev foom kuv tsw zoo heev kawg le, tassws thaus nwg tuaj tog kuv ntawm ntug dej Yalatee, mas kuv tuav Yawmsaub lub npe cog lug twv rua nwg tas, kuv yuav tsw xuas ntaaj tua nwg. 9Vem le hov koj tsw xob suav tas nwg tsw txhum. Koj tub muaj tswvyim, koj kuj paub tas tswm nyog koj yuav ua le caag rua nwg. Koj ca le coj nwg lub taubhau dawb quas paug nrug nwg cov ntshaav nqeg rua huv tub tuag teb.”

Tavi tuag

10Tes Tavi txawm tuag moog nrug nwg tej laug nyob mas puab muab nwg log rua huv Tavi lub nroog. 11Lub swjhawm kws Tavi kaav cov Yixayee yog plaub caug xyoo. Nwg nyob huv Heploo kaav tau xyaa xyoo, nyob huv Yeluxalee kaav tau peb caug peb xyoo. 12Xalaumoo txhad sawv nyob nwg txwv Tavi lub zwm txwv, mas nwg kaav tau tebchaws ruaj khov.

Xalaumoo tswjfwm tau nwg lub tebchaws

13Hakis tug tub Antauniya tuaj cuag Npasenpa kws yog Xalaumoo nam. Mas Npasenpa nug nwg tas, “Koj tuaj ua zoo lov?” Antauniya teb tas, “Kuv tuaj ua zoo xwb. 14Kuv muaj ib lu lug yuav has rua koj.” Npasenpa has tas, “Ca le has maj.” 15Nwg txhad has tas, “Koj yeej paub tas kuv txhad yog tug kws yuav kaav lub tebchaws, hab taag nrho cov Yixayee suavdawg yeej npaaj sab tas kuv yuav tau kaav. Txawm le caag los xwj lub tebchaws poob lug rua kuv tug kwv lawm, vem yog Yawmsaub pub rua nwg kaav. 16Mas nwgnuav kuv tsuas thov ib yaam xwb, thov koj tsw xob txhem.” Npasenpa has rua nwg tas, “Ca le has maj.” 17Antauniya txhad has tas, “Thov koj moog thov vaajntxwv, nyab nwg yuav tsw txhem koj, yog thov nwg muab Anpisa kws yog tuabneeg huv lub moos Sunee rua kuv yuav ua quaspuj.” 18Npasenpa has tas, “Zoo kawg, kuv yuav moog paab koj has rua vaajntxwv.”
19Npasenpa txawm moog cuag vaajntxwv Xalaumoo paab Antauniya has rua vaajntxwv. Mas vaajntxwv sawv tseeg fem nwg hab nyo hau rua nwg. Tes txawm rov nyob tsawg sau lub zwm txwv mas has kuas muab rooj rua vaajntxwv nam nyob. Leej nam txhad lug nyob ntawm nwg saab xws, 20mas has tas, “Kuv yuav thov ib nyuas yaam ntawm koj, koj tsw xob txhem kuv.” Tes vaajntxwv txawm has tas, “Nam, thov maj, kuv yuav tsw txhem koj.” 21Leej nam txhad has tas, “Thov muab Anpisa kws yog tuabneeg huv Sunee rua koj tug tijlaug Antauniya yuav ua quaspuj.” 22Vaajntxwv Xalaumoo teb nwg nam tas, “Ua caag koj yuav thov Anpisa kws yog tuabneeg huv Sunee rua Antauniya yuav? Ca le thov hlo lub tebchaws rua nwg hab los maj, tsua qhov nwg tub yog kuv le tijlaug hab nwg tub muaj tug pov thawj Anpiyatha hab Xeluya tug tub Yau‑a tuaj nwg tog.” 23Vaajntxwv Xalaumoo txawm tuav Yawmsaub lub npe cog lug twv has tas, “Yog tej lug nuav tsw ua rua Antauniya txujsa tu mas ca Vaajtswv rau txem rua kuv nyaav dua le hov hab. 24Vem le nuav, muaj Yawmsaub muaj txujsa nyob pum, Yawmsaub kws yog tug tsaa kuv kuas nyob ruaj khov hab muab kuv txawb rua sau kuv txwv Tavi lub zwm txwv, hab pub kuv caaj ceg kaav moog le, lawv le Yawmsaub tau cog lug ca, mas Antauniya yeej yuav raug muab tua nub nua ntaag.” 25Yog le hov vaajntxwv Xalaumoo txhad khaiv Yehauyanta tug tub Npenaya moog muab Antauniya tua, nwg txhad tuag lawm.
26Vaajntxwv has rua tug pov thawj Anpiyatha tas, “Ca le moog rua lub moos Anathau moog nyob huv koj daim teb, tsua qhov koj mas tswm nyog tuag lawm. Tassws lub swjhawm nuav kuv tsw tua koj vem yog koj tau kwv Vaajtswv Yawmsaub lub swb xaab ua kuv txwv Tavi ntej, hab vem koj tau nrug kuv txwv raug txhua yaam kev txom nyem ua ke.” 27Xalaumoo txhad muab Anpiyatha lawv tawm qhov kws ua Yawmsaub le pov thawj, txhad tav lawv le Yawmsaub tej lug kws has txug Eli caaj ceg huv lub moos Silau.
28Thaus tej xuv nuav nrov moog txug Yau‑a, txawm yog Yau‑a tsw tuaj Axaloo tog los nwg tuaj Antauniya tog, mas Yau‑a txhad tswv moog rua Yawmsaub lub tsev ntaub hab moog tuav rawv cov kub ntawm lub thaaj xyeem. 29Thaus kws muaj tuabneeg moog has rua vaajntxwv Xalaumoo tas, “Yau‑a tub tswv moog rua ntawm Yawmsaub lub tsev ntaub lawm hab nwg nyob ntawm lub thaaj xyeem ib saab,” mas Xalaumoo txhad khaiv Yehauyanta tug tub Npenaya moog, has tas, “Ca le moog muab nwg tua pov tseg.” 30Npenaya txhad moog rua ntawm Yawmsaub lub tsev ntaub mas has rua Yau‑a tas, “Vaajntxwv kuas koj ca le tawm lug.” Yau‑a teb tas, “Kuv tsw tawm le, kuv yeem tuag ntawm nuav.” Tes Npenaya kuj coj xuv moog has rua vaajntxwv tas, “Yau‑a has le hov ntaag, nwg teb kuv le nuav ntaag.”
31Vaajntxwv teb nwg tas, “Ca le ua lawv le nwg has rua nwg. Ca le muab nwg tua hab muab faus tseg. Ua le nuav sub txhad ntxuav tau lub txem kws Yau‑a tua tej tuabneeg tsw txhum tawm ntawm kuv hab kuv txwv caaj ceg moog. 32Yawmsaub yuav coj qhov kws nwg tua lwm tug lug ntshaav hov rov lug poob rua sau nwg taubhau, tsua qhov nwg tau xuas ntaaj tua ob tug txwvneej kws ncaaj nceeg dua hab zoo dua nwg, kws kuv txwv Tavi kuj tsw paub le, yog Naw tug tub Anaw kws ua thawj kaav cov tub rog Yixayee hab Yethaw tug tub Amaxa kws ua thawj kaav cov tub rog Yuta. 33Mas ob tug tuag nuav cov ntshaav yuav poob rua sau Yau‑a hab nwg caaj ceg taubhau ib txhab ib txhws, tassws Tavi hab nwg tej tub ki hab nwg caaj ceg hab nwg lub zwm txwv Yawmsaub yuav pub kuas nyob tug quas yeeg ib txhab ib txhws.”
34Yehauyanta tug tub Npenaya txawm moog tua Yau‑a tuag mas muab nwg log rua ntawm nwg lub tsev huv tebchaws moj saab qhua. 35Vaajntxwv Xalaumoo tsaa Yehauyanta tug tub Npenaya ua thawj kaav tub rog nyob Yau‑a chaw, hab vaajntxwv tsaa Xantau ua pov thawj nyob Anpiyatha chaw.
36Vaajntxwv khaiv tuabneeg moog hu Sime‑i tuaj mas has rua nwg tas, “Koj ca le ua tsev rua huv Yeluxalee hab nyob tuabywv hov ntawd, tsw xob tawm moog hovtwg le. 37Yog nub twg koj tawm hlaa lub haav Khiloo hov moog, mas koj ca le paub tseeb tas koj yuav tuag. Qhov kws koj tuag hov koj yuav rws koj xwb.” 38Mas Sime‑i has rua vaajntxwv tas, “Qhov kws vaajntxwv has le nuav kuj zoo kawg. Vaajntxwv kws yog kuv tug tswv has le caag los kuv kws yog koj tug qhev yuav ua le ntawd.” Sime‑i txhad le nyob huv Yeluxalee tau ntev.
39Nyob tau peb xyoos mas Sime‑i ob tug qhev tswv moog cuag Ma‑akha tug tub Akhij kws ua vaajntxwv huv lub moos Ka. Mas thaus muaj tuabneeg has rua Sime‑i tas, “Koj ob tug qhev nyob huv lub moos Ka,” 40Sime‑i txawm sawv tseeg pem eeb rua sau neeg luav moog cuag Akhij huv lub moos Ka moog nrhav nwg ob tug qhev. Sime‑i tau moog coj nwg ob tug qhev ntawm lub moos Ka lug. 41Thaus muaj tuabneeg has rua Xalaumoo tas Sime‑i tub tawm huv Yeluxalee moog txug lub moos Ka hab rov qaab lug lawm, 42vaajntxwv txawm khaiv tuabneeg moog hu Sime‑i tuaj mas has rua nwg tas, “Kuv tub kuas koj tuav Yawmsaub lub npe cog lug twv tseg hab kuv nkaw lug rua koj tas, ‘Koj ca le paub tseeb tas nub twg koj tawm moog tsw has koj moog rua hovtwg koj yuav tuag xwb.’ Mas koj tub teb kuv tas, ‘Tej lug kws koj has nuav zoo kawg le, kuv yuav noog koj lug.’ 43Ua le caag koj tsw ceev cov lug kws koj cog rua Yawmsaub lawm hab tsw ceev tej lug kws kuv has kuas koj ua?” 44Vaajntxwv rov has dua rua Sime‑i tas, “Koj yeej paub tej kev phem kws koj ua rua kuv txwv Tavi huvsw huv koj lub sab lawm. Vem le nuav Yawmsaub yuav muab tej kev phem rov lug pauj rua sau koj lub taubhau. 45Tassws vaajntxwv Xalaumoo yuav tau moov zoo hab Tavi lub zwm txwv yuav nyob ruaj khov rua ntawm Yawmsaub xubndag moog ib txhws.” 46Mas vaajntxwv txawm has rua Yehauyanta tug tub Npenaya mas nwg tawm moog muab Sime‑i tua pov tseg, Sime‑i txhad le tuag. Ua le nuav lub tebchaws txhad nyob ruaj khov rua huv Xalaumoo txhais teg.