2

Đa-vít Khuyên Dặn Sa-lô-môn

1Khi ngày Đa-vít qua đời đến gần, Đa-vít khuyên dặn Sa-lô-môn, con trai của mình rằng: 2“Cha sắp đi vào con đường mọi người trên đất phải đi qua. Vậy con hãy mạnh mẽ, hãy chứng tỏ con là một bậc trượng phu, 3và hãy để ý kỹ những gì CHÚA là Đức Chúa Trời của con đòi hỏi nơi con. Con hãy đi trong đường lối Ngài, vâng giữ những mạng lịnh, điều răn, luật pháp và quy tắc của Ngài như đã chép trong kinh luật Môi-se, để con được thịnh vượng trong mọi việc con làm và nơi nào con đi đến, 4hầu cho Chúa sẽ giữ lời hứa của Ngài đã hứa với cha rằng: ‘Nếu hậu tự của ngươi biết cẩn trọng sống trước mặt Ta; nếu chúng hết lòng và hết tâm hồn mà bước đi cách trung thành trước mặt Ta, thì ngươi sẽ không lo có một người kế vị ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’
5Ngoài ra, con cũng biết những việc Giô-áp con trai Giê-ru-a đã làm cho cha, thế nào hắn đã đối với hai vị chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, tức là Áp-ne con trai Nê-rơ và A-ma-sa, con trai Giê-the. Hắn đã giết hai người ấy, làm đổ máu họ ra trong thời bình như thể ngoài trận mạc. Hắn đã làm vấy máu chiến trường nơi đai lưng của hắn và trên giày của hắn mang nơi chân. 6Con hãy dựa vào sự khôn ngoan của con mà xử sự trong việc nầy, và đừng để đầu bạc của hắn bình an đi xuống âm phủ.
7Con hãy đối xử tử tế với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át; hãy để họ ăn đồng bàn với con. Vì họ đã đứng bên cha, khi cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm, anh con.
8Con cũng có Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim. Hắn đã lấy những lời độc hại rủa sả cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im, nhưng khi hắn xuống đón cha ở bờ sông Giô-đanh, cha có nhân danh Chúa mà thề với hắn rằng: ‘Ta sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ 9Nhưng con chớ coi hắn là vô tội, vì con khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho hắn phải mang đầu bạc dính máu mà xuống âm phủ.”

Đa-vít Qua Đời

10Rồi Đa-vít an giấc cùng các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. 11Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Vua trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. 12Vậy Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và vương quốc của Sa-lô-môn được thiếp lập vững vàng.

Sa-lô-môn Củng Cố Vương Quyền

13A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít đến gặp Bát-sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà hỏi: “Ngươi đến có ý bình an chăng?”
 A-đô-ni-gia đáp: “Vâng, bình an.”
14Rồi nói tiếp: “Xin cho tôi có một lời thưa cùng bà.”
 Bà đáp: “Hãy nói đi.”
15A-đô-ni-gia nói: “Chắc bà cũng biết là vương quốc nầy đáng lý thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong đợi tôi trị vì, nhưng vương quốc đã quay trở thành của em tôi, ấy là do nơi Chúa mà thôi. 16Nhưng bây giờ tôi có một điều muốn xin bà, mong bà đừng từ chối.”
 Bà đáp: “Hãy nói đi.”
17A-đô-ni-gia nói, “Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn, vì vua chẳng từ chối với bà điều gì, xin vua ban cho tôi A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ.”
18Bát-sê-ba đáp: “Được, ta sẽ nói với vua cho ngươi.”
19Bát-sê-ba đến gặp vua Sa-lô-môn để xin vua giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và cúi đầu trước mặt bà; đoạn vua ngồi xuống trên ngai, rồi truyền đem một ngai nữa cho thái hậu, và bà ngồi bên phải vua.
20Bấy giờ bà nói: “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.”
 Vua đáp: “Thưa mẹ, xin mẹ hãy nói, con sẽ không từ chối đâu.”
21Bà nói: “Hãy ban A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, anh con.”
22Nhưng vua Sa-lô-môn đáp với thái hậu rằng: “Tại sao mẹ lại xin A-bi-sắc, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ không xin cả vương quốc nầy cho anh ấy luôn. Vì anh ấy là anh của con mà. Sao mẹ không xin cho anh ấy thầy tế lễ A-bia-tha và Giô-áp, con trai Giê-ru-a luôn một thể đi.”
23Bấy giờ vua Sa-lô-môn nhân danh Chúa mà thề rằng: “Nguyện Chúa đối xử với tôi, nguyện Ngài phạt tôi cách nặng nề, nếu A-đô-ni-gia không bị thiệt mạng vì lời yêu cầu nầy. 24Vậy bây giờ, tôi nhân danh Chúa hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi được vững vàng, đã đặt tôi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, và xây dựng một nhà cho tôi, mà nói rằng, A-đô-ni-gia phải bị xử tử hôm nay.” 25Vua Sa-lô-môn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Bê-na-gia đến giết A-đô-ni-gia và A-đô-ni-gia chết.
26Vua truyền cho thầy tế lễ A-bia-tha: “Hãy về A-na-tốt, nơi sản nghiệp ngươi, vì ngươi đáng chết. Nhưng hôm nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng rương của Chúa Hằng Hữu trước mặt Đa-vít, cha ta, và vì ngươi có chia sẻ những khổ cực mà cha ta đã gánh chịu.” 27Vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha đi, không cho làm thầy tế lễ truớc mặt Chúa nữa, hầu cho lời của Chúa đã phán tại Si-lô về gia tộc của thầy tế lễ Hê-li được ứng nghiệm.
28Khi tin nầy đến tai Giô-áp, vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, dù ông không ủng hộ Áp-sa-lôm, thì ông liền trốn đến Đền Tạm của Chúa và nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. 29Người ta tâu với vua Sa-lô-môn rằng: “Giô-áp đã trốn đến Đền Tạm của Chúa, và kìa ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ.”
 Sa-lô-môn truyền cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa rằng: “Hãy đi, giết hắn đi.”
30Vậy Bê-na-gia đến Đền Tạm của Chúa và nói với ông: “Vua truyền rằng: Ông hãy ra khỏi nơi đó.”
 Nhưng Giô-áp đáp: “Không. Ta sẽ chết ở đây.”
 Bê-na-gia về tâu lại cho vua: “Tôi có nói với Giô-áp thế nầy, và ông ấy đã đáp lại thế kia.”
31Vua phán: “Hãy làm y như ông ấy đã nói. Hãy giết ông ấy và đem chôn ông ấy đi. Như thế ta và nhà cha ta sẽ được cất khỏi máu vô tội mà Giô-áp đã làm chảy ra vô cớ. 32Chúa sẽ báo trả những hành động đẫm máu lại trên đầu ông ấy. Bởi vì, trong khi cha ta là Đa-vít không biết, thì ông ấy đã tấn công và giết chết hai người ngay lành và tốt hơn ông ấy. Đó là Áp-ne, con trai Nê-rơ, chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. 33Vậy máu của họ sẽ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu của dòng dõi ông ấy đời đời; nhưng Đa-vít và dòng dõi người, cùng nhà người, và ngôi nước người sẽ được bình an từ nơi Chúa mãi mãi.”
34Vậy Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đi lên, đánh hạ Giô-áp và giết chết ông ta. Người ta chôn ông ta tại nhà ông, gần sa mạc. 35Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội thay cho Giô-áp, và vua cũng đặt thầy tế lễ Xa-đốc thay thế chức vụ của A-bia-tha.
36Sau đó vua truyền cho Si-mê-i vào chầu và phán: “Hãy cất cho ngươi một cái nhà trong Giê-ru-sa-lem và ở đó. Chớ đi ra khỏi đó để đi đây đi đó. 37Vì ngươi khá biết rằng hễ ngày nào ngươi ra khỏi đó mà vượt qua khỏi khe Kít-rôn thì ngươi chắc sẽ chết. Máu của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.”
38Si-mê-i tâu với vua: “Lời của hoàng thượng thật chí lý. Hoàng thượng là chúa của hạ thần đã truyền dạy thế nào, hạ thần sẽ làm y như vậy.” Vậy Si-mê-i sống ở Giê-ru-sa-lem lâu ngày.
39Nhưng sau ba năm, có hai đầy tớ của Si-mê-i bỏ trốn đến A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta báo cho Si-mê-i rằng: “Kìa, các đầy tớ của ông đang ở tại Gát.” 40Si-mê-i liền chỗi dậy, thắng lừa, và đi đến Gát, gặp A-kích để tìm các đầy tớ của ông. Vậy Si-mê-i đi đến Gát và bắt các đầy tớ của ông về.
41Khi vua Sa-lô-môn được tâu rằng Si-mê-i đã rời Giê-ru-sa-lem đi đến Gát và đã trở về, 42vua cho gọi Si-mê-i vào và nói với ông: “Có phải ta đã bắt ngươi thề trước mặt Chúa và cảnh cáo ngươi rằng: ‘Ngày nào ngươi rời khỏi Giê-ru-sa-lem mà đi đây đi đó thì ngươi chắc sẽ chết sao?’ Ngươi đã nói với ta rằng: ‘Lời vua nói rất đúng. Tôi sẽ tuân theo.’ 43Thế tại sao ngươi không vâng giữ lời ngươi đã thề trước mặt CHÚA và tuân theo lệnh ta đã truyền cho ngươi?”
44Vua lại nói tiếp với Si-mê-i: “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng đã quá rõ những việc ác mà ngươi đã làm cho Đa-vít, cha ta. Bây giờ Chúa sẽ báo trả cho ngươi những việc ác ngươi đã làm. 45Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước, và ngôi của Đa-vít sẽ tồn tại cách vững bền trước mặt CHÚA đến đời đời.”
46Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Ông ấy đi đánh hạ Si-mê-i và Si-mê-i chết.
 Bấy giờ vương quốc được thiết lập vững vàng trong tay Sa-lô-môn.

2

Davi nkaw lus rau Xalaumoo

1Thaum ze lub sijhawm uas Davi yuav tag sim neej mas nws nkaw lus rau nws tus tub Xalaumoo tias, 2“Kuv tabtom yuav dua mus ib yam li ib tsoom neeg ntiajteb. Koj cia li ua khov kho yam li ib tug txivneej yawg, 3thiab tuav rawv tej lus uas koj tus Vajtswv Yawmsaub hais, ua lub neej raws li nws txojkev, thiab tuav rawv nws tej kab ke thiab nws tej lus nkaw thiab nws tej kevcai thiab nws tej lus qhia raws li uas twb muab sau cia rau hauv Mauxe phau kevcai, xwv koj thiaj li vam meej rau txhua yam haujlwm uas koj ua thiab rau txhua qhov uas koj mus, 4mas Yawmsaub thiaj ua raws li nws tej lus uas nws hais ntsig txog kuv tias, ‘Yog koj tej tub ki ceev faj rau txhua txojkev uas lawv ua thiab ua lawv lub neej xib rau ntawm kuv lub xubntiag kawg siab kawg ntsws, mas koj caj ces yuav tsis tu ncua tus txivneej uas nyob saum cov Yixayee lub zwm txwv.’
5“Dua ib qho koj yeej paub tias Xeluya tus tub Yau‑a tau ua li cas rau kuv lawm. Koj paub tias nws ua li cas rau ob tug thawj uas kav Yixayee cov tub rog, yog ua rau Naw tus tub Anaw thiab ua rau Yethaw tus tub Amaxa uas nws cia li muab tua rau thaum lub tebchaws tus lawd, ua pauj tej ntshav uas los rau thaum uas tseem ua rog. Nws muab tej ntshav uas tsis txhaum ntawd ua tso rau saum nws txoj siv ntawm duav thiab tso rau saum nws txhais khau ntawm nws kotaw. 6Vim li no cia li ua raws li koj lub tswvyim pom zoo, tsis txhob cia nws tus dawb hau mus ua siab tus yees rau hauv tub tuag teb. 7Cia li ua zoo rau Npaxilai uas yog neeg Kile‑a cov tub, kheev lawv nrog koj koom rooj noj mov ua ke, rau qhov thaum uas kuv khiav koj tus tijlaug Axaloo mus lawv tau ua zoo kawg rau kuv ib yam li ntawd. 8Muaj Kela tus tub Sime‑i uas yog xeem Npeeyamee uas nyob hauv lub moos Npahuli kuj nrog koj nyob ua ke no. Hnub uas kuv mus rau lub moos Mahana‑i mas nws cem foom kuv tsis zoo heev kawg li, tiamsis thaum nws tuaj tos kuv ntawm ntug dej Yaladee, mas kuv tuav Yawmsaub lub npe cog lus twv rau nws tias, kuv yuav tsis xuas ntaj tua nws. 9Vim li ntawd koj tsis txhob suav tias nws tsis txhaum. Koj twb muaj tswvyim, koj kuj paub tias tsim nyog koj yuav ua li cas rau nws. Koj cia li coj nws lub taubhau dawb paug nrog nws cov ntshav nqes rau hauv tub tuag teb.”

Davi tuag

10Ces Davi txawm tuag mus nrog nws tej poj koob yawm txwv nyob mas lawv muab nws log rau hauv Davi lub nroog. 11Lub sijhawm uas Davi kav cov Yixayee yog plaub caug xyoo. Nws nyob hauv Heploo kav tau xya xyoo, nyob hauv Yeluxalees kav tau peb caug peb xyoo. 12Xalaumoo thiaj sawv nyob nws txiv Davi lub zwm txwv, mas nws kav tau tebchaws ruaj khov.

Xalaumoo tswjhwm tau nws lub tebchaws

13Hakis tus tub Adauniya tuaj cuag Npasenpa uas yog Xalaumoo niam. Mas Npasenpa nug nws tias, “Koj tuaj ua zoo lov?” Adauniya teb tias, “Kuv tuaj ua zoo xwb. 14Kuv muaj ib lo lus yuav hais rau koj.” Npasenpa hais tias, “Cia li hais maj.” 15Nws thiaj hais tias, “Koj yeej paub tias kuv thiaj yog tus uas yuav kav lub tebchaws, thiab tag nrho cov Yixayee sawvdaws yeej npaj siab tias kuv yuav tau kav. Txawm li cas los xij lub tebchaws poob los rau kuv tus kwv lawm, vim yog Yawmsaub pub rau nws kav. 16Mas nimno kuv tsuas thov ib yam xwb, thov koj tsis txhob xyeej txhem.” Npasenpa hais rau nws tias, “Cia li hais maj.” 17Adauniya thiaj hais tias, “Thov koj mus thov vajntxwv, nyaj nws yuav tsis xyeej txhem koj, yog thov nws muab Anpisa uas yog neeg hauv lub moos Sunee rau kuv yuav ua pojniam.” 18Npasenpa hais tias, “Zoo kawg, kuv yuav mus pab koj hais rau vajntxwv.”
19Npasenpa txawm mus cuag vajntxwv Xalaumoo pab Adauniya hais rau vajntxwv. Mas vajntxwv sawv tsees fim nws thiab nyo hau rau nws. Ces txawm rov zaum saum lub zwm txwv mas hais kom muab rooj rau vajntxwv niam nyob. Leej niam thiaj los nyob ntawm nws sab xis, 20mas hais tias, “Kuv yuav thov ib nyuag yam ntawm koj, koj tsis txhob xyeej txhem kuv.” Ces vajntxwv txawm hais tias, “Niam, thov maj, kuv yuav tsis xyeej txhem koj.” 21Leej niam thiaj hais tias, “Thov muab Anpisa uas yog neeg hauv Sunee rau koj tus tijlaug Adauniya yuav ua pojniam.” 22Vajntxwv Xalaumoo teb nws niam tias, “Ua cas koj yuav thov Anpisa uas yog neeg hauv Sunee rau Adauniya yuav? Cia li thov kiag lub tebchaws rau nws thiab los maj, rau qhov nws twb yog kuv li tijlaug thiab nws twb muaj tus pov thawj Anpiyatha thiab Xeluya tus tub Yau‑a tuaj nws tog.” 23Vajntxwv Xalaumoo txawm tuav Yawmsaub lub npe cog lus twv hais tias, “Yog tej lus no tsis ua rau Adauniya txojsia tu mas cia Vajtswv rau txim rau kuv hnyav dua li ntawd thiab. 24Vim li no, muaj Yawmsaub muaj txojsia nyob pom, Yawmsaub uas yog tus tsa kuv kom nyob ruaj khov thiab muab kuv txawb rau saum kuv txiv Davi lub zwm txwv, thiab pub kuv caj ces kav mus li, raws li Yawmsaub tau cog lus cia, mas Adauniya yeej yuav raug muab tua hnub no ntag.” 25Yog li ntawd vajntxwv Xalaumoo thiaj txib Yehauyada tus tub Npenaya mus muab Adauniya tua, nws thiaj tuag lawm.
26Vajntxwv hais rau tus pov thawj Anpiyatha tias, “Cia li mus rau lub moos Anathau mus nyob hauv koj daim teb, rau qhov koj mas tsim nyog tuag lawm. Tiamsis lub sijhawm no kuv tsis tua koj vim yog koj tau kwv Vajtswv Yawmsaub lub phij xab ua kuv txiv Davi ntej, thiab vim koj tau nrog kuv txiv raug txhua yam kev txom nyem ua ke.” 27Xalaumoo thiaj muab Anpiyatha raws tawm qhov uas ua Yawmsaub li pov thawj, thiaj tiav raws li Yawmsaub tej lus uas hais txog Eli caj ces hauv lub moos Silau.
28Thaum tej xov no nrov mus txog Yau‑a, txawm yog Yau‑a tsis tuaj Axaloo tog los nws tuaj Adauniya tog, mas Yau‑a thiaj khiav mus rau Yawmsaub lub tsev ntaub thiab mus tuav rawv cov kub ntawm lub thaj xyeem. 29Thaum uas muaj neeg mus hais rau vajntxwv Xalaumoo tias, “Yau‑a twb khiav mus rau ntawm Yawmsaub lub tsev ntaub lawm thiab nws nyob ntawm lub thaj xyeem ib sab,” mas Xalaumoo thiaj txib Yehauyada tus tub Npenaya mus, hais tias, “Cia li mus muab nws tua pov tseg.” 30Npenaya thiaj mus rau ntawm Yawmsaub lub tsev ntaub mas hais rau Yau‑a tias, “Vajntxwv kom koj cia li tawm los.” Yau‑a teb tias, “Kuv tsis tawm li, kuv yeem tuag ntawm no.” Ces Npenaya kuj coj xov mus hais rau vajntxwv tias, “Yau‑a hais li ntawd ntag, nws teb kuv li no ntag.” 31Vajntxwv teb nws tias, “Cia li ua raws li nws hais rau nws. Cia li muab nws tua thiab muab faus tseg. Ua li no xwv thiaj ntxuav tau lub txim uas Yau‑a tua tej neeg tsis txhaum tawm ntawm kuv thiab kuv txiv caj ces mus. 32Yawmsaub yuav coj qhov uas nws tua lwm tus los ntshav ntawd rov los poob rau saum nws taubhau, rau qhov nws tau xuas ntaj tua ob tug txivneej uas ncaj ncees dua thiab zoo dua nws, uas kuv txiv Davi kuj tsis paub li, yog Naw tus tub Anaw uas ua thawj kav cov tub rog Yixayee thiab Yethaw tus tub Amaxa uas ua thawj kav cov tub rog Yuda. 33Mas ob tug tuag no cov ntshav yuav poob rau saum Yau‑a thiab nws caj ces taubhau ib txhiab ib txhis, tiamsis Davi thiab nws tej tub ki thiab nws caj ces thiab nws lub zwm txwv Yawmsaub yuav pub kom nyob tus yees ib txhiab ib txhis.”
34Yehauyada tus tub Npenaya txawm mus tua Yau‑a tuag mas muab nws log rau ntawm nws lub tsev hauv tebchaws moj sab qhua. 35Vajntxwv Xalaumoo tsa Yehauyada tus tub Npenaya ua thawj kav tub rog nyob Yau‑a chaw, thiab vajntxwv tsa Xadau ua pov thawj nyob Anpiyatha chaw.
36Vajntxwv txib neeg mus hu Sime‑i tuaj mas hais rau nws tias, “Koj cia li ua tsev rau hauv Yeluxalees thiab nyob twjywm qhov ntawd, tsis txhob tawm mus qhovtwg li. 37Yog hnub twg koj tawm hla lub hav Khiloo ntawd mus, mas koj cia li paub tseeb tias koj yuav tuag. Qhov uas koj tuag ntawd koj yuav ris koj xwb.” 38Mas Sime‑i hais rau vajntxwv tias, “Qhov uas vajntxwv hais li no kuj zoo kawg. Vajntxwv uas yog kuv tus tswv hais li cas los kuv uas yog koj tus qhev yuav ua li ntawd.” Sime‑i thiaj li nyob hauv Yeluxalees tau ntev.
39Nyob tau peb xyoos mas Sime‑i ob tug qhev khiav mus cuag Ma‑akha tus tub Akhij uas ua vajntxwv hauv lub moos Ka. Mas thaum muaj neeg hais rau Sime‑i tias, “Koj ob tug qhev nyob hauv lub moos Ka,” 40Sime‑i txawm sawv tsees nog eeb rau saum nees luav mus cuag Akhij hauv lub moos Ka mus nrhiav nws ob tug qhev. Sime‑i tau mus coj nws ob tug qhev ntawm lub moos Ka los. 41Thaum muaj neeg hais rau Xalaumoo tias Sime‑i twb tawm hauv Yeluxalees mus txog lub moos Ka thiab rov qab los lawm, 42vajntxwv txawm txib neeg mus hu Sime‑i tuaj mas hais rau nws tias, “Kuv twb kom koj tuav Yawmsaub lub npe cog lus twv tseg thiab kuv nkaw lus rau koj tias, ‘Koj cia li paub tseeb tias hnub twg koj tawm mus tsis hais koj mus rau qhovtwg koj yuav tuag xwb.’ Mas koj twb teb kuv tias, ‘Tej lus uas koj hais no zoo kawg li, kuv yuav mloog koj lus.’ 43Ua li cas koj tsis ceev cov lus uas koj cog rau Yawmsaub lawm thiab tsis ceev tej lus uas kuv hais kom koj ua?” 44Vajntxwv rov hais dua rau Sime‑i tias, “Koj yeej paub tej kev phem uas koj ua rau kuv txiv Davi huvsi hauv koj lub siab lawm. Vim li no Yawmsaub yuav muab tej kev phem rov los pauj rau saum koj lub taubhau. 45Tiamsis vajntxwv Xalaumoo yuav tau hmoov zoo thiab Davi lub zwm txwv yuav nyob ruaj khov rau ntawm Yawmsaub xubntiag mus ib txhis.” 46Mas vajntxwv txawm hais rau Yehauyada tus tub Npenaya mas nws tawm mus muab Sime‑i tua pov tseg, Sime‑i thiaj li tuag. Ua li no lub tebchaws thiaj nyob ruaj khov rau hauv Xalaumoo txhais tes.