4

Chúa Giê-xu nói chuyện
với người đàn bà Xa-ma-ri

1Khi Chúa Giê-xu biết việc người Pha-ri-xi nghe đồn Ngài chiêu mộ và làm lễ báp-têm cho nhiều người hơn Giăng, 2thật ra không phải Chúa Giê-xu mà là các môn đệ Ngài làm lễ báp-têm, 3thì liền rời miền Giu-đia trở về miền Ga-li-lê. 4Trên đường về Ngài phải băng qua xứ Xa-ma-ri.
5Đến một thị trấn thuộc xứ Xa-ma-ri gọi là Xi-kha, gần thửa ruộng mà Gia-cốp cho Giô-xép, con mình. 6Ở đó có cái giếng Gia-cốp. Mỏi mệt vì đi đường xa, nên Chúa Giê-xu ngồi nghỉ chân bên giếng. Lúc ấy khoảng giữa trưa. 7Có một người đàn bà Xa-ma-ri đến giếng để lấy nước. Chúa Giê-xu nói với chị, “Chị làm ơn cho tôi xin chút nước uống.” 8Chuyện xảy ra khi các môn đệ Ngài đang vào phố mua thức ăn.
9Người đàn bà Xa-ma-ri trả lời, “Ơ kìa, ông là đàn ông Do-thái mà tại sao lại xin nước uống ở tôi là đàn bà Xa-ma-ri?” Người Do-thái không thích tiếp xúc với người Xa-ma-ri.
10Chúa Giê-xu đáp, “Nếu chị biết được ơn lành từ Thượng Đế là gì và biết người xin chị nước uống là ai, chắc hẳn chị sẽ xin và người ấy sẽ cho chị nước sống.”
11Chị hỏi, “Thưa ông, giếng thì sâu mà ông lại không có gàu để múc, vậy ông lấy nước sống ấy ở đâu? 12Tổ tiên chúng tôi là Gia-cốp đã để lại cho chúng tôi giếng nầy; chính ông ấy cùng con cháu và bầy gia súc đều uống nước từ đó. Ông lớn hơn Gia cốp à?”
13Chúa Giê-xu đáp, “Ai uống nước nầy rồi sẽ còn khát mãi, 14nhưng người nào uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho người ấy sẽ trở thành một suối nước tuôn trào từ bên trong và dẫn đến sự sống đời đời.”
15Chị thưa, “Xin ông làm ơn cho tôi nước ấy đi để tôi không khát nữa và khỏi cần đến đây lấy nước.”
16Chúa Giê-xu bảo, “Chị về gọi chồng chị đến đây.”
17Chị đáp, “Tôi không có chồng.”
 Chúa Giê-xu tiếp, “Chị nói không có chồng là đúng lắm.
18Thật ra chị đã có năm đời chồng rồi, còn người đàn ông mà chị đang chung sống cũng chẳng phải là chồng chị. Chị đã nói thật.”
19Chị đáp, “Thưa ông, tôi nhận thấy ông là nhà tiên tri. 20Tổ tiên chúng tôi thờ phụng trên núi nầy, còn người Do-thái các ông thì lại cho rằng nơi phải thờ phụng là Giê-ru-sa-lem.”
21Chúa Giê-xu bảo, “Chị tin tôi đi. Đến lúc người ta không còn thờ phụng Cha trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem nữa. 22Người Xa-ma-ri không biết điều mình thờ phụng; nhưng chúng tôi biết điều chúng tôi thờ phụng vì sự cứu rỗi đến từ người Do-thái. 23Đã đến lúc mọi người thờ phụng chân thật sẽ thờ phụng Cha bằng tâm linh và sự thật. Thời điểm đó đã đến rồi. Chị thấy không, Cha đang tìm kiếm những kẻ thờ phụng như thế. 24Thượng Đế là linh thần nên ai thờ phụng Ngài phải dùng tâm linh và lòng thành thật.”
25Người đàn bà thưa, “Tôi biết Đấng Mê-si sắp đến.” Mê-si có nghĩa là Đấng Cứu Thế. “Khi Ngài đến, Ngài sẽ giải thích mọi việc cho chúng ta.”
26Chúa Giê-xu bảo, “Đấng ấy chính là tôi đây, người đang nói chuyện với chị.”
27Lúc đó các môn đệ Ngài cũng từ phố vừa về tới. Họ sửng sốt khi thấy Ngài nói chuyện với một người đàn bà. Tuy nhiên không ai hỏi Ngài, “Thầy cần gì?” hoặc “Sao thầy nói chuyện với chị ấy?”
28Chị bỏ bầu nước lại, trở vào thành bảo dân chúng, 29“Ra mà xem một người đã nói vanh vách hết tất cả những gì tôi làm. Biết đâu chừng ông ta là Đấng Cứu Thế?” 30Do đó dân chúng lũ lượt từ thành kéo nhau ra gặp Chúa Giê-xu.
31Trong khi ấy các môn đệ nài nỉ Chúa Giê-xu, “Mời thầy ăn một chút.”
32Nhưng Chúa Giê-xu đáp, “Ta có một thức ăn mà các con không biết.”
33Các môn đệ hỏi nhau, “Có ai mang thức ăn cho thầy rồi sao?”
34Chúa Giê-xu đáp, “Thức ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến và làm xong công việc Ngài. 35Các con hay nói, ‘Còn bốn tháng nữa là tới mùa gặt.’ Nhưng ta bảo các con, hãy mở mắt nhìn cánh đồng; lúa đã chín, sẵn sàng để gặt rồi! 36Thợ gặt được trả công và đang thu góp mùa màng vào sự sống đời đời. Vì thế mà cả người trồng lẫn người gặt đều vui chung. 37Câu ngạn ngữ nói đúng, ‘Người nầy gieo, kẻ kia gặt.’ 38Ta sai các con đến gặt một loại hoa màu mà các con không phải bỏ công lao. Người khác đã ra sức, còn các con vào hưởng công lao của họ.”
39Có nhiều người Xa-ma-ri ở thành ấy tin Chúa Giê-xu qua lời làm chứng của người đàn bà rằng, “Người kể vanh vách mọi điều tôi làm.” 40Lúc các người Xa-ma-ri ra gặp Ngài thì nài nỉ Ngài ở lại với họ, nên Chúa Giê-xu nhận lời và ở lại tại đó hai ngày. 41Có thêm nhiều người nữa tin, sau khi nghe những lời dạy của Ngài.
42Họ bảo chị, “Lúc đầu chúng tôi tin, vì lời làm chứng của chị, nhưng bây giờ chúng tôi tin vì chúng tôi đã nghe Ngài tận tai và biết chắc rằng người nầy quả thật là Đấng Cứu Thế của nhân loại.”

Chữa lành con trai của một sĩ quan

43Hai ngày sau, Chúa Giê-xu rời nơi ấy đi đến miền Ga-li-lê. 44Ngài đã từng nói là chẳng có nhà tiên tri nào được tôn trọng nơi quê hương mình cả. 45Khi đến miền Ga-li-lê, dân chúng nơi ấy tiếp đón Ngài, vì họ đã chứng kiến mọi việc Ngài làm trong lễ Vượt Qua, và họ cũng có mặt tại đó.
46Chúa Giê-xu trở lại viếng thành Ca-na thuộc Ga-li-lê, nơi Ngài đã biến nước thành rượu. Một sĩ quan cao cấp của nhà vua ở thành Ca-bê-nâm có đứa con trai đang lâm bệnh. 47Khi nghe Chúa Giê-xu từ Giu-đia đã trở về Ga-li-lê, ông liền đi đón và van xin Ngài đến Ca-bê-nâm chữa lành cho con mình đang hấp hối. 48Chúa Giê-xu bảo, “Tại sao các ông luôn luôn phải thấy dấu kỳ và phép lạ thì mới chịu tin?”
49Viên sĩ quan nài nỉ, “Xin Ngài làm ơn đến trước khi con tôi chết.”
50Chúa Giê-xu bảo, “Ông cứ về đi. Con của ông sẽ sống.”
 Viên sĩ quan đó tin lời Chúa Giê-xu bảo và đi về.
51Trên đường về thì các đầy tớ ra đón và báo tin, “Con của chủ khỏi bệnh rồi!”
52Ông hỏi họ, “Con tôi bắt đầu hết bệnh vào giờ nào?”
 Họ đáp, “Khoảng một giờ trưa hôm qua, cơn sốt dứt.”
53Người cha liền nhớ lại đó chính là giờ mà Chúa Giê-xu bảo, “Con của ông sẽ sống!” Nên ông và cả nhà đều tin nhận Ngài.
54Đó là phép lạ thứ nhì mà Chúa Giê-xu làm sau khi từ miền Giu-đia trở về Ga-li-lê.

4

Yêsu Pơhiăp Hăng Pô Đah Kơmơi Samaria

1Ƀing Pharisai hơmư̆ hing kơ tơlơi Yêsu hơmâo lu ƀing ding kơna laih anŭn ngă brơi baptem lu hloh kơ Yôhan, 2djơ̆ biă mă ñu, ƀu djơ̆ Yêsu pô ôh ngă brơi baptem, samơ̆ ƀing ding kơna Ñu yơh ngă. 3Tơdang Yêsu thâo kơ tơlơi anŭn, Ñu đuaĭ hĭ mơ̆ng kwar Yudea laih anŭn wơ̆t glaĭ pơ kwar Galilê dơ̆ng.
4Hlak anŭn, Ñu khưp ngă laih kiăng kơ khŏm găn nao amăng kwar Samaria. 5Tui anŭn, Ñu nao truh pơ sa boh plei amăng kwar Samaria anăn Sukhar, jing jĕ pơ hơma Yakôb hơmâo jao brơi laih kơ ană ñu Yôsêp đưm hlâo adih. 6Pơ anŭn hơmâo sa boh ia dơmun hlâo adih lŏm kơ Yakôb. Yêsu gleh rơmơ̆n mơ̆ng tơlơi rơbat laih anŭn Ñu dŏ be̱r jĕ ƀơi ia dơmun anŭn. Hlak anŭn, kơplăh wăh ƀơi yang hrơi dơ̆ng yơh. 7Tơdang hơmâo sa čô đah kơmơi Samaria rai sŏ ia, Yêsu rơkâo kơ ñu tui anai, “Pha brơi kơ Kâo mơñum ia đa?” 8Hlak anŭn, ƀing ding kơna Ñu mŭt nao pơ plei laih kiăng kơ blơi gơnam ƀơ̆ng.
9Pô đah kơmơi Samaria anŭn laĭ kơ Ñu tui anai, “Ih jing sa čô Yehudah laih anŭn kâo jing sa čô đah kơmơi Samaria. Hiư̆m pă ih dưi rơkâo mơ̆ng kâo kiăng kơ mơñum ia lĕ?” Ñu laĭ tui anŭn yuakơ amăng rơnŭk anŭn, ƀing Yehudah ƀu kiăng tĕk wĕk hơget ôh hăng ƀing Samaria.
10Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Tơdah ih thâo krăn tơlơi Ơi Adai kiăng pha brơi kơ ih laih anŭn thâo krăn hlơi pô hlak rơkâo kơ ih ia mơñum, sĭt ih či rơkâo kơ Kâo laih anŭn Kâo či pha brơi kơ ih ia jing ia ngă brơi kơ ih hơdip yơh.”
11Pô đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Ơ khua ăh, ih ƀu hơmâo gơnam hơget ôh kiăng kơ sŏ ia laih anŭn ia dơmun anai ăt dơlăm dơ̆ng mơ̆n, tui anŭn mơ̆ng pă ih dưi mă ia hơdip anŭn jing ia ngă brơi kơ kâo hơdip lĕ? 12Ih jing yom prŏng hloh kơ ơi adon gơmơi Yakôb hă, jing pô brơi laih kơ ƀing gơmơi ia dơmun anai laih anŭn ñu pô ăt mơñum mơ̆ng ia anai mơ̆n, wơ̆t hăng ƀing ană đah rơkơi ñu, tơpul hlô mơnơ̆ng ñu ăt mơñum ia anai mơ̆n?”
13Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Hlơi pô mơñum ia mơ̆ng ia dơmun anai, ñu anŭn ăt či dŏ mơhao dơ̆ng mơ̆n, 14samơ̆ hlơi pô mơñum ia Kâo pha brơi kơ ñu, ñu anŭn ƀu či mơhao dơ̆ng tah. Sĭt yơh, ia Kâo brơi kơ ñu anŭn či jing hĭ amăng ñu kar hăng phŭn ia bluh jing tơlơi či ngă kơ ñu hơdip hlŏng lar yơh.”
15Đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Ơ khua, pha brơi bĕ ia anŭn kơ kâo, kiăng kơ kâo ƀu či mơhao laih anŭn ƀu rai sŏ ia pơ anai dơ̆ng tah.”
16Yêsu pơđar kơ gơ̆ tui anai, “Nao iâu bĕ rơkơi ih laih anŭn wơ̆t glaĭ pơ anai.”
17Đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Kâo ƀu hơmâo rơkơi ôh.”
 Yêsu laĭ kơ gơ̆ tui anai, “Ih laĭ djơ̆ yơh tơdang ih laĭ kơ tơlơi ih ƀu hơmâo rơkơi ôh.
18Djơ̆ biă mă ñu, ih hơmâo laih rơma čô rơkơi, bơ kơ rơkơi ih hlak dŏ ră anai ƀu djơ̆ rơkơi ih ôh. Tơlơi ih phrâo pơhiăp anŭn jing djơ̆ biă mă yơh.”
19Pô đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Ơ khua ăh, kâo thâo ih jing pô pơala. 20Ƀing ơi adon gơmơi kơkuh pơpŭ kơ Ơi Adai ƀơi čư̆ anai, samơ̆ ƀing gih jing ƀing Yehudah yap kơ anih ƀing gơmơi khŏm kơkuh pơpŭ jing anih amăng plei phŭn Yerusalaim.”
21Yêsu pơhiăp tui anai, “Ơ đah kơmơi ăh, đaŏ kơ Kâo bĕ tơdang Kâo laĭ kơ tơlơi hrơi mông anŭn či truh tơdang ƀing gih či kơkuh pơpŭ kơ Yang Ama ƀu djơ̆ kơnơ̆ng ƀơi čư̆ anai đôč ôh ăt kŏn djơ̆ amăng plei Yerusalaim lơi. 22Ƀing gih, jing ƀing Samaria, kơkuh pơpŭ kơ tơlơi ƀing gih ƀu thâo ôh. Ƀing gơmơi, jing ƀing Yehudah, kơkuh pơpŭ kơ tơlơi ƀing gơmơi thâo, yuakơ mơ̆ng ƀing gơmơi, jing ƀing Yehudah yơh, Ơi Adai hơmâo pơkiaŏ rai laih Pô pơklaih mơnuih mơnam. 23Samơ̆ hrơi mông anŭn hlak truh laih anŭn hơmâo truh laih yơh tơdang ƀing mơnuih kơkuh pơpŭ sĭt kơ Ơi Adai či kơkuh pơpŭ kơ Ñu tui hăng Yang Bơngăt Ñu kơčrâo brơi laih anŭn tui hăng mơta tơlơi jing sĭt yơh, yuakơ Yang Ama hơduah kiăng kơ ƀing mơnuih kơkuh pơpŭ kơ Ñu kar hăng anŭn yơh. 24Hơnŭn yơh, Ơi Adai jing yang bơngăt, hlơi pô kơkuh pơpŭ kơ Ñu, ñu anŭn khŏm kơkuh pơpŭ kơ Ñu tui hăng Yang Bơngăt Ñu kơčrâo brơi laih anŭn tui hăng tơlơi sĭt yơh.”
25Pô đah kơmơi anŭn laĭ tui anai, “Kâo thâo kơ tơlơi Pô Messiah, jing Pô Krist anŭn, hlak rai. Tơdang Ñu rai, Ñu či pơblang abih bang tơlơi bruă ƀing gơmơi kiăng kơ thâo yơh.”
26Giŏng anŭn, Yêsu laĭ dơ̆ng tui anai, “Kâo, jing Pô hlak pơhiăp anai yơh, jing Pô Messiah.”

Ƀing Ding Kơna Yêsu Glaĭ Pơ Ñu

27Ƀơi mông anŭn ƀing ding kơna Ñu truh laih anŭn ƀing gơñu le̱ng kơ kơtuă soh sel tơdang ƀuh Yêsu hlak pơhiăp hăng sa čô đah kơmơi. Samơ̆ ƀu hơmâo hlơi pô ôh tơña kơ pô đah kơmơi anŭn tui anai, “Hơget tơlơi Ih kiăng lĕ?” Ƀôdah tơña kơ Yêsu tui anai, “Yua hơget Ih pơhiăp hăng ñu lĕ?”
28Giŏng anŭn, pô đah kơmơi anŭn lui hĭ čeh ia ñu laih anŭn wơ̆t glaĭ pơ plei hăng ruai kơ ƀing ană plei anŭn tui anai, 29“Rai lăng bĕ, hơmâo sa čô mơnuih dưi pơruai glaĭ kơ kâo abih bang tơlơi kâo hơmâo ngă laih hlâo adih. Ñu anŭn ƀu djơ̆ Krist ôh hă?” 30Tui anŭn, abih bang mơnuih amăng plei tơbiă laih anŭn nao pơ Yêsu.
31Tơdang anŭn, ƀing ding kơna Ñu rơkâo kơ Ñu tui anai, “Ơ Nai ăh, ƀơ̆ng huă bĕ.”
32Samơ̆ Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo hơmâo gơnam ƀơ̆ng kiăng kơ ƀơ̆ng samơ̆ ƀing gih ƀu thâo djơ̆ ôh.”
33Tơdơi kơ Ñu pơhiăp laih tui anŭn, ƀing ding kơna Ñu pơlaĭ hăng tơdruă gơñu tui anai, “Hơmâo mơnuih ba rai gơnam ƀơ̆ng kơ Ñu laih hă?”
34Yêsu laĭ dơ̆ng tui anai, “Gơnam ƀơ̆ng Kâo jing kar hăng tơlơi ngă tui tơlơi kiăng Pô pơkiaŏ rai laih Kâo kiăng kơ Kâo ngă laih anŭn pơgiŏng hĭ bruă anŭn yơh. 35Ƀing gih hơmâo tơlơi pơhiăp pơhreng tui anai, ‘Dŏ pă̱ blan dơ̆ng truh kơ bơyan hơpuă.’ Samơ̆ Kâo laĭ kơ ƀing gih, lăng pơñen bĕ ƀơi ƀing mơnuih jing ƀing kar hăng pơdai amăng đang hơma! Ƀing gơñu jing kar hăng pơdai tơsă tơdang bơyan hơpuă hơmâo truh laih yơh. 36Ră anai mơnuih kar hăng pô hơpuă hlak tŭ mă tơlơi bơni laih hăng pơƀut glaĭ ƀing mơnuih kar hăng pơƀut glaĭ gơnam tăm tui anŭn ƀing gơñu dưi hơdip hlŏng lar, tui anŭn mơnuih jing pô sai hăng mơnuih pơkŏn jing pô hơpuă hơ̆k mơak hrŏm hơbĭt yơh. 37Tui anŭn, hơmâo tơlơi pơhiăp pơhreng tui anai, ‘Pô anai sai, pô pơkŏn hơpuă’ jing djơ̆ biă mă yơh. 38Kâo pơkiaŏ laih ƀing gih kiăng kơ mă bruă kar hăng hơpuă pơ anih ƀing gih kar hăng ƀu sai ôh. Ƀing pơkŏn hơmâo pơgiŏng laih bruă tơnap laih anŭn ƀing gih kơnơ̆ng tŭ mơyŭn, kar hăng hơpuă, mơ̆ng bruă gơñu đôč yơh.”

Lu Ƀing Samaria Đaŏ Kơnang Kơ Yêsu

39Hơmâo lu ƀing Samaria mơ̆ng plei anŭn đaŏ kơnang kơ Yêsu yuakơ tơlơi pô đah kơmơi anŭn pơruai laih kơ ƀing gơñu tui anai, “Ñu dưi pơruai glaĭ laih kơ kâo abih bang tơlơi kâo hơmâo ngă hlâo adih.” 40Tui anŭn, tơdang ƀing Samaria nao pơ Yêsu, ƀing gơñu rơkâo kơ Ñu dŏ glaĭ hăng ƀing gơ̆, laih anŭn Yêsu dŏ glaĭ pơ anŭn dua hrơi yơh. 41Yua mơ̆ng hơdôm tơlơi Yêsu hơmâo pơruai laih kơ ƀing gơñu, hơmâo lu mơnuih dơ̆ng đaŏ kơnang kơ Ñu.
42Ƀing gơñu laĭ kơ pô đah kơmơi anŭn tui anai, “Ƀing gơmơi ƀu đaŏ dơ̆ng tah kơnơ̆ng tui hăng tơlơi ih pơruai laih, samơ̆ ră anai gơmơi pô yơh hơmâo hơmư̆ laih Ñu, laih anŭn thâo sĭt Ñu yơh jing Pô dưi pơklaih hĭ abih bang mơnuih mơnam yơh.”

Yêsu Pơsuaih Ană Rơkơi Pô Khua Tơhan

43Tơdơi kơ dua hrơi anŭn, Yêsu đuaĭ nao pơ kwar Galilê yơh. 44Hlâo kơ anŭn Yêsu pô hơmâo laĭ laih kơ tơlơi sa čô pô pơala arăng ƀu pơpŭ pơyom ôh amăng plei ñu pô. 45Tơdang Ñu truh pơ kwar Galilê, ƀing mơnuih kwar anŭn čơkă mơak hăng Ñu yơh. Ƀing gơñu hơmâo ƀuh laih abih bang tơlơi Ñu hơmâo ngă laih ƀơi tơlơi phet Tơlơi Găn amăng plei Yerusalaim, yuakơ ƀing gơñu ăt nao pơ tơlơi phet anŭn mơ̆n.
46Sa wơ̆t dơ̆ng, Yêsu nao čuă ngui plei Kana amăng kwar Galilê, jing plei Ñu hơmâo pơplih hĭ laih ia ƀlăng jing hĭ tơpai boh kơƀâo. Pơ anŭn hơmâo sa čô khua tơhan, ană đah rơkơi ñu hlak dŏ ruă kơtang pơ plei Kapharnaoum. 47Tơdang pô khua anŭn hơmư̆ kơ tơlơi Yêsu hơmâo rai laih amăng kwar Galilê mơ̆ng kwar Yudea, ñu nao bưp Yêsu laih anŭn rơkâo kơ Ñu nao pơsuaih brơi ană ñu jĕ či djai laih.
48Tui anŭn, Yêsu laĭ kơ gơ̆ tui anai, “Kơnơ̆ng tơdah ƀing gih ƀuh Kâo ngă lu gru tơlơi mơsêh mơyang dơ̆ng đôč kiăng pơrơđah hlơi Kâo jing, anŭn kăh ƀing gih či đaŏ kơnang kơ Kâo.”
49Pô khua anŭn laĭ tui anai, “Ơ khua ăh, rơkâo kơ Ih rai bĕ hlâo kơ ană kâo djai.”
50Yêsu pơhiăp tui anai, “Nao bĕ, ană đah rơkơi ih či hơdip yơh.”
 Pô khua anŭn đaŏ kơ boh pơhiăp Yêsu laih anŭn glaĭ yơh.
51Tơdang ñu ăt dŏ rơbat ƀơi jơlan, hơmâo ƀing ding kơna ñu đuaĭ nao čơkă ñu hăng ruai kơ tơlơi ană ñu ăt dŏ hơdip. 52Tơdang pô khua anŭn tơña kơ ƀing gơñu hlak ƀơi mông pă ană ñu dưi suaih, ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Ñu suaih hĭ mơ̆ng ruă tơ̆m brơi ƀơi sa mông klăm.”
53Giŏng anŭn, pô ama anŭn thâo krăn mơtam kơ tơlơi djơ̆ ƀơi mông anŭn yơh Yêsu hơmâo pơhiăp laih hăng ñu tui anai, “Ană đah rơkơi ih či hơdip yơh.” Tui anŭn, ñu hăng abih bang sang ñu đaŏ kơnang kơ Yêsu yơh.
54Anŭn jing tơlơi mơsêh mơyang tal dua Yêsu hơmâo ngă laih tơdang Ñu tơbiă mơ̆ng kwar Yudea hăng glaĭ pơ kwar Galilê.