9

1Ngài nói với họ, “Quả thật, Ta nói với các ngươi, vài người đứng đây sẽ không nếm trải sự chết cho đến khi thấy vương quốc Ðức Chúa Trời đến trong quyền năng.”

Chúa Hóa Hình

(Mat 17:1-8; Lu 9:28-36)

2Sáu ngày sau Ðức Chúa Jesus đem Phi-rơ, Gia-cơ, và Giăng theo Ngài. Ngài dẫn riêng họ lên núi cao, và Ngài biến hóa trước mặt họ. 3Y phục Ngài tỏa rực hào quang và trở nên cực trắng mà không thợ giặt nào trên đất có thể làm cho trắng được như thế. 4Có Ê-li-gia và Mô-sê hiện ra với họ, và các vị ấy đàm đạo với Ðức Chúa Jesus.
5Bấy giờ Phi-rơ cất tiếng và thưa với Ðức Chúa Jesus, “Thưa Thầy, chúng ta ở đây tốt quá. Ðể chúng con dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho Mô-sê, và một cái cho Ê-li-gia.” 6Ông nói mà không biết mình nói gì, bởi vì họ quá đỗi kinh hoàng.
7Một đám mây kéo đến bao phủ họ; từ trong đám mây có tiếng phán, “Ðây là Con yêu dấu của Ta, hãy nghe lời Người!” 8Bất chợt họ nhìn quanh và không thấy ai ở với họ nữa ngoại trừ một mình Ðức Chúa Jesus.

Chúa Dạy về Việc Ê-li-gia Ðến

(Mat 17:9-13)

9Khi xuống núi Ngài ra lịnh cho họ không được nói với ai những gì họ đã thấy cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. 10Họ ghi nhớ điều ấy trong lòng và bàn bạc với nhau về những lời “từ cõi chết sống lại” có nghĩa gì. 11Họ hỏi Ngài, “Tại sao các thầy dạy giáo luật lại bảo rằng Ê-li-gia phải đến trước?”
12Ngài trả lời họ, “Ê-li-gia thật phải đến trước để tái lập mọi sự. Còn những gì đã viết về Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị miệt thị thì sao? 13Nầy, Ta nói với các ngươi, Ê-li-gia quả đã đến rồi, và họ đã đối xử với ông ấy theo ý họ muốn, y như lời đã viết về ông ấy.”

Chúa Chữa Lành Cậu Bé Bị Quỷ Ám

(Mat 17:14-21; Lu 9:37-43)

14Khi họ đến gặp các môn đồ, họ thấy một đám đông bao quanh các môn đồ ấy, và có mấy thầy dạy giáo luật đang tranh luận với các môn đồ ấy. 15Vừa thấy Ngài cả đám đông rất đỗi ngạc nhiên, rồi họ chạy đến chào Ngài. 16Ngài hỏi họ, “Các ngươi đang tranh luận với họ về việc gì thế?”
17Một người trong đám đông đáp, “Thưa Thầy, tôi đem con trai tôi đến nhờ Thầy cứu chữa. Cháu bị quỷ ám làm cháu không nói được. 18Mỗi khi quỷ bắt lấy cháu, nó vật cháu xuống; cháu trào bọt mép, nghiến răng, và cứng người. Tôi đã xin các môn đồ Thầy đuổi quỷ ấy ra, nhưng họ không đuổi được.”
19Ngài nói với họ, “Hỡi thế hệ vô tín, Ta phải ở với các ngươi bao lâu nữa? Ta phải chịu đựng các ngươi bao lâu nữa? Hãy đem đứa trẻ đến Ta.” 20Họ đem đứa trẻ đến Ngài. Vừa khi thấy Ngài, quỷ liền hành hạ đứa trẻ; nó ngã xuống đất, lăn lộn, và trào bọt mép.
21Ngài hỏi cha đứa trẻ, “Nó bị như thế đã bao lâu rồi?”
 Ông đáp, “Thưa từ khi cháu còn bé.
22Cháu thường bị quỷ quăng vào lửa và vào nước để giết cháu. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì để giúp chúng tôi, xin Thầy dủ lòng thương.”
23Ðức Chúa Jesus phán, “Nếu có thể à? Mọi sự đều có thể xảy ra cho người có lòng tin.”
24Người cha của đứa trẻ liền bật khóc lớn tiếng, “Tôi tin. Xin giúp tôi khắc phục sự vô tín của tôi.”
25Khi Ðức Chúa Jesus thấy đám đông kéo nhau chạy đến, Ngài truyền cho tà linh ô uế, “Hỡi quỷ câm và điếc, Ta ra lệnh cho ngươi, hãy ra khỏi đứa trẻ nầy và không được phép nhập lại vào nó nữa.” 26Con quỷ thét lên một tiếng lớn, vật mạnh đứa trẻ khiến nó co giật dữ dội, rồi xuất ra. Ðứa trẻ trở nên như người chết đến nỗi nhiều người nói, “Ðứa nhỏ đã chết rồi.” 27Nhưng Ðức Chúa Jesus nắm tay nó, đỡ nó dậy, và nó đứng dậy.
28Sau khi đã vào trong nhà, các môn đồ Ngài đến hỏi riêng Ngài, “Tại sao chúng con không thể đuổi quỷ ấy ra được?
29Ngài đáp, “Thứ quỷ ấy không thể đuổi ra ngoại trừ cầu nguyện.”

Chúa Nói Trước về Sự Chết và Sự Sống Lại của Ngài (lần thứ hai)

(Mat 17:22-23; Lu 9:43-45)

30Từ nơi đó họ đi ngang qua miền Ga-li-lê, nhưng Ngài không muốn ai biết, 31vì Ngài muốn dạy dỗ các môn đồ Ngài. Ngài bảo họ, “Con Người sẽ bị phản nộp vào tay người ta. Họ sẽ giết Người, và Người sẽ bị giết, nhưng ba ngày sau Người sẽ sống lại.” 32Tuy nhiên các môn đồ Ngài không hiểu những lời đó, và họ ngại nên không hỏi Ngài.

Người Lớn Nhất

(Mat 18:1-5; Lu 9:46-48)

33Sau đó họ đến Thành Ca-phác-na-um. Khi đã vào trong nhà, Ngài hỏi họ, “Các ngươi đã bàn cãi với nhau việc gì ở dọc đường thế?” 34Họ đều nín thinh, vì dọc đường họ đã cãi với nhau xem ai là người lớn hơn hết giữa họ. 35Sau khi ngồi xuống, Ngài gọi mười hai môn đồ lại và nói với họ, “Nếu ai muốn làm đầu, người ấy phải làm kẻ cuối rốt của tất cả và làm đầy tớ của tất cả.”
36Ngài đem một em bé để đứng giữa các môn đồ. Ðoạn Ngài ôm đứa bé vào lòng và nói, 37“Ai vì danh Ta tiếp một đứa bé như đứa bé nầy tức là tiếp Ta. Ai tiếp Ta thì không phải chỉ tiếp Ta mà cũng tiếp Ðấng đã sai Ta.”

Không Chống Là Ủng Hộ

(Lu 9:49-50)

38Giăng nói với Ngài, “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy để đuổi quỷ. Chúng con đã cấm người ấy, vì người ấy không theo chúng ta.”
39Nhưng Ðức Chúa Jesus đáp, “Ðừng cấm cản người ấy, vì không ai nhân danh Ta làm một việc quyền năng phép lạ lại có thể vội vàng nói xấu Ta. 40Vì ai không chống chúng ta là ủng hộ chúng ta. 41Quả thật, Ta nói với các ngươi, ai cho các ngươi uống một chén nước vì các ngươi mang danh là người của Ðấng Christ, người ấy sẽ không mất phần thưởng của mình đâu.”

Gây Cớ Vấp Ngã

(Mat 18:6-9; Lu 17:1-2)

42“Kẻ nào làm cho một trong những đứa trẻ nầy đã tin Ta bị vấp ngã, thà kẻ ấy bị buộc một cối đá lớn vào cổ và bị quăng xuống biển còn hơn.
43Nếu tay ngươi gây cho ngươi vấp ngã, hãy chặt nó đi; thà cụt một tay mà vào sự sống còn hơn có cả hai tay mà vào hỏa ngục, nơi lửa không hề tắt.
44- 45Nếu chân ngươi gây cho ngươi vấp ngã, hãy chặt nó đi. Thà què chân mà vào sự sống còn hơn có cả hai chân mà bị ném vào hỏa ngục.
46- 47Nếu mắt ngươi gây cho ngươi vấp ngã, hãy móc nó đi; thà chột mắt mà vào vương quốc Ðức Chúa Trời còn hơn có đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, 48nơi giòi bọ của chúng không hề chết và lửa không hề tắt. 49Vì mỗi người sẽ bị muối bằng lửa.

9

1Yêsu pơhiăp dơ̆ng hăng ƀing ding kơna Ñu tui anai, “Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, đơđa amăng ƀing mơnuih dŏ dơ̆ng pơ anai ƀu či djai ôh hlâo kơ ƀing gơñu ƀuh dêh čar Ơi Adai rai hăng tơlơi dưi mơyang.”

Drơi Jan Yêsu Pơplih

(Mathiơ 17:1-13; Luk 9:28-36)

2Năm hrơi tơdơi kơ tơlơi Ñu pơtô anŭn, Yêsu iâu ba Pêtrôs, Yakơ laih anŭn Yôhan hrŏm hăng Ñu laih anŭn đĭ nao pơ čư̆ glông, jing anih ƀing gơñu dŏ hơjăn păn. Pơ anih anŭn yơh drơi jan Ñu pơplih hĭ phara ƀơi anăp ƀing ding kơna Ñu. 3Sum ao Ñu jing hĭ bơngač rơđah biă mă, tơl ƀu hơmâo hlơi pô ôh amăng lŏn tơnah anai dưi pơrơgoh kô̱̆ bơngač kar hăng anŭn. 4Giŏng anŭn, tŏ tơnŏ Êliyah hăng Môseh pơƀuh rai ƀơi anŭn laih anŭn pơhiăp hăng Yêsu.
5Pêtrôs laĭ hăng Yêsu tui anai, “Ơ Nai ăh, hiam yơh kơ ƀing ta dŏ pơ anai. Brơi kơ ƀing gơmơi pơdơ̆ng đĭ bĕ klâo boh nưh, sa kơ Ih, sa kơ Môseh laih anŭn sa kơ Êliyah.” 6Pêtrôs ƀu thâo hơget či pơhiăp ôh, yuakơ ƀing gơñu huĭ bra̱l biă mă.
7Giŏng anŭn, hơmâo kơthul hiăng rai go̱m hĭ ƀing gơñu, laih anŭn hơmâo dơnai hiăp mơ̆ng kơthul anŭn tui anai, “Anai yơh jing Ană Đah Rơkơi Kâo, jing Pô Kâo khăp biă mă; pơđi̱ng hơmư̆ tui Ñu bĕ!”
8Blĭp blăp tơdang ƀing gơñu lăng hyu jum dar, ƀing gơñu ƀu ƀuh hlơi pô ôh hăng ƀing gơñu, kơnơ̆ng ƀuh Yêsu đôč.
9Tơdang ƀing gơñu trŭn mơ̆ng čư̆, Yêsu khă hĭ ƀing ding kơna kiăng kơ ƀu ră ruai hơdôm tơlơi ƀing gơñu hơmâo ƀuh laih pơ anŭn kơ arăng tơl truh hrơi Ñu, jing Ană Mơnuih, hơmâo hơdip glaĭ laih mơ̆ng mơnuih djai. 10Tui anŭn, ƀing ding kơna Ñu anŭn djă̱ pioh tơlơi anŭn kơ gơñu pô laih anŭn pơrơklah hăng tơdruă gơñu kơ tơlơi hơget kiăng laĭ “hơdip glaĭ mơ̆ng mơnuih djai.”
11Giŏng anŭn, ƀing gơñu tơña kơ Yêsu tui anai dơ̆ng, “Tui anŭn, yua hơget ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt laĭ tui anai lĕ: Êliyah yơh khŏm rai hlâo kơ Pô Messiah?”
12Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Sĭt Êliyah yơh khŏm rai hlâo kiăng kơ rŭ̱ pơdơ̆ng glaĭ abih bang jua pơmĭn mơnuih mơnam. Tui anŭn, yua hơget arăng hơmâo čih laih kơ tơlơi Kâo, Ană Mơnuih, khŏm tŭ lu mơta tơlơi ruă nuă laih anŭn tơlơi arăng hơngah lui hĭ lĕ? 13Samơ̆ Kâo laĭ kơ ƀing gih, Êliyah hơmâo rai laih yơh, laih anŭn ƀing arăng hơmâo ngă laih kơ gơ̆ tui hăng tơlơi ƀing gơñu kiăng, anŭn jing tui hăng tơlơi arăng hơmâo čih laih kơ ñu.”

Yêsu Pơsuaih Sa Čô Čơđai Yang Sat Ngă

(Mathiơ 17:14-21; Luk 9:37-43a)

14Tơdang ƀing gơñu wơ̆t glaĭ truh pơ ƀing ding kơna pơkŏn, ƀing gơñu ƀuh ƀing mơnuih lu dŏ jum dar gơñu laih anŭn ƀing nai pơtô tơlơi juăt dŏ pơrơjăh hăng ƀing gơñu. 15Tơdang abih bang mơnuih lu ƀuh Yêsu, ƀing gơñu hli̱ng hla̱ng biă mă laih anŭn đuaĭ nao pơhiăp kơkuh hăng Ñu yơh.
16Yêsu tơña kơ ƀing gơñu tui anai, “Hơget tơlơi ƀing gih pơrơjăh hăng ƀing gơñu lĕ?”
17Sa čô amăng ƀing mơnuih lu anŭn laĭ glaĭ tui anai, “Ơ Nai ăh, kâo ba rai pơ Ih ană kâo anai, jing pô yang sat ngă tơl ngă brơi kơ gơ̆ jing hĭ kơmlô. 18Laih anŭn rĭm wơ̆t yang sat ngă kơ ñu, pơrơbuh hĭ gơ̆ ƀơi lŏn. Gơ̆ ƀlĕ pơrơboh ia bah, kĕ tơgơi laih anŭn drơi jan gơ̆ găng hĭ. Kâo hơmâo rơkâo laih kơ ding kơna Ih kiăng kơ puh pơđuaĭ hĭ yang sat anŭn, samơ̆ ƀing gơñu ƀu dưi ngă ôh.”
19Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Ơ ƀing ƀu đaŏ hơi, hơbĭn sui dơ̆ng Kâo khŏm dŏ hăng ƀing gih lĕ? Hơbĭn sui dơ̆ng Kâo ư̆ añ kơ ƀing gih lĕ? Ba rai bĕ čơđai anŭn pơ Kâo.”
20Tui anŭn, ƀing gơñu ba čơđai anŭn pơ Yêsu yơh. Tơdang yang sat ƀuh Yêsu, ñu pơañăk gơ̆ mơtam. Ñu pơrơbuh hĭ čơđai anŭn ƀơi lŏn laih anŭn tơglŭng drơi jan gơ̆ hăng pơrơboh ia bah yơh.
21Yêsu tơña kơ ama čơđai anŭn tui anai, “Hơbĭn sui laih hơmâo tơlơi truh hrup hăng anŭn lĕ?”
 Ñu laĭ glaĭ tui anai, “Čơdơ̆ng mơ̆ng ñu dŏ anet yơh.
22Lu wơ̆t yang sat juăt glŏm hĭ gơ̆ amăng apui ƀôdah amăng ia kiăng pơdjai hĭ gơ̆. Samơ̆ tơdah Ih dưi ngă hơget tơlơi, rơkâo kơ Ih pap mơñai djru brơi kơ ƀing gơmơi đa.”
23Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Hơget ih laĭ ‘tơdah ih dưi’ lĕ? Abih bang tơlơi bruă le̱ng kơ dưi jing hĭ soh sel kơ hlơi pô đaŏ kơnang.”
24Ƀơi mông anŭn mơtam, ama čơđai anŭn laĭ kraih tui anai, “Kâo đaŏ kơnang yơh. Rơkâo kơ Ih djru bĕ kâo dưi hĭ kơ tơlơi kâo ƀu đaŏ kơnang!”
25Tơdang Yêsu ƀuh ƀing mơnuih lu đuaĭ rai pơ Ñu, Ñu pơhiăp kơ yang sat tui anai, “Ơ yang kơmlô hăng tơngĭl, Kâo pơđar kơ ŏng tơbiă đuaĭ hĭ bĕ mơ̆ng čơđai anai laih anŭn anăm wơ̆t glaĭ mŭt amăng gơ̆ dơ̆ng tah.”
26Yang sat anŭn ur kraih, pơañăk gơ̆ sat biă mă laih anŭn tơbiă đuaĭ hĭ yơh. Čơđai anŭn jing hĭ kar hăng atâo djai tơl lu mơnuih laĭ tui anai, “Ñu djai laih.” 27Samơ̆ Yêsu mă ƀơi tơngan gơ̆ hăng rŭ̱ đĭ gơ̆, gơ̆ tơgŭ dŏ dơ̆ng yơh.
28Tơdơi kơ Yêsu mŭt pơ sang laih, ƀing ding kơna Ñu tơña hơjăn păn kơ Yêsu tui anai, “Yua hơget ƀing gơmơi ƀu dưi puh pơđuaĭ hĭ yang sat anŭn ôh lĕ?”
29Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Kơnơ̆ng yua mơ̆ng tơlơi iâu laĭ đôč yơh, djuai yang sat anŭn dưi tơbiă đuaĭ hĭ.”

Yêsu Laĭ Lui Hlâo Dơ̆ng Kơ Tơlơi Ñu Či Ruă Nuă Hăng Djai

(Mathiơ 17:22, 23; Luk 9:43a-45)

30Ƀing gơñu đuaĭ hĭ mơ̆ng anih anŭn hăng găn nao kwar Galilê. Yêsu ƀu kiăng kơ arăng thâo ôh pơpă ƀing gơñu dŏ, 31yuakơ Ñu hlak pơtô pơhrăm kơ ƀing ding kơna Ñu. Ñu pơtô pơhrăm kơ ƀing gơñu tui anai, “Arăng jĕ či mă jao hĭ Kâo, jing Ană Mơnuih, kơ ƀing mơnuih mơnam hơmâo tơlơi dưi. Ƀing gơñu či pơdjai hĭ Kâo yơh, samơ̆ klŏh klâo hrơi Kâo či hơdip glaĭ dơ̆ng.” 32Samơ̆ ƀing gơñu ƀu thâo hluh hơget tơlơi Yêsu kiăng laĭ ôh laih anŭn ƀing gơñu ƀu khĭn tơña kơ Ñu kơ tơlơi anŭn ôh.

Hlơi Pô Yom Pơphan Hloh

(Mathiơ 18:1-5; Luk 9:46-48)

33Ƀing gơñu nao truh pơ plei Kapharnaoum. Tơdang Yêsu dŏ amăng sang, Ñu tơña kơ ƀing gơñu tui anai, “Hơget tơlơi ƀing gih pơgăl rok jơlan lĕ?” 34Samơ̆ ƀing gơñu dŏ rơiăt yuakơ rok jơlan ƀing gơñu hơmâo pơgăl laih kơ tơlơi hlơi jing pô yom pơphan hloh.
35Yêsu dŏ be̱r laih anŭn Ñu iâu rai pluh-dua čô ƀing ding kơna Ñu hăng laĭ tui anai, “Hlơi pô kiăng kơ jing pô blung hlâo, ñu anŭn khŏm jing pô hơnăl tuč laih anŭn jing pô ding kơna kơ abih bang yơh.”
36Ñu mă sa čô čơđai anet laih anŭn brơi gơ̆ dŏ dơ̆ng ƀơi tŏng krah ƀing gơñu. Ñu pi gơ̆ amăng tơngan Ñu laih anŭn laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, 37“Hlơi pô ju̱m sa čô čơđai amăng ƀing čơđai kar hăng anai amăng anăn Kâo, ñu anŭn ju̱m Kâo yơh, laih anŭn hlơi pô ju̱m Kâo ƀu djơ̆ ñu anŭn kơnơ̆ng ju̱m Kâo đôč ôh samơ̆ ñu ju̱m Pô pơkiaŏ rai Kâo yơh.”

Hlơi Pô Ƀu Pơkơdơ̆ng Glaĭ Hăng Ƀing Ta Ñu Anŭn Jing Gah Ƀing Ta Yơh

(Luk 9:49, 50)

38Yôhan laĭ tui anai, “Ơ Nai ăh, ƀing gơmơi ƀuh sa čô mơnuih puh pơđuaĭ hĭ yang sat hăng anăn Ih, tui anŭn ƀing gơmơi khă hĭ ñu yuakơ ñu ƀu đuaĭ tui ƀing ta ôh.”
39Yêsu laĭ tui anai, “Anăm khă hĭ ñu ôh. Ƀu hơmâo ôh hlơi pô ngă tơlơi mơsêh mơyang hăng anăn Kâo laih anŭn ƀơi mông pơkŏn dưi pơhiăp sat kơ Kâo, 40yuakơ hlơi pô ƀu pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing ta, ñu anŭn dŏ gah kơ ƀing ta yơh. 41Kâo laĭ kơ ƀing gih sĭt biă mă, hlơi pô pha brơi kơ ƀing gih sa kơčŏk ia ƀlăng amăng anăn Kâo yuakơ ƀing gih lŏm kơ Krist, sĭt pô anŭn ƀu či rơngiă hĭ gơnam bơni ñu ôh.”

Tơlơi Plư Ngă Soh

(Mathiơ 18:6-9; Luk 17:1, 2)

42Yêsu pơtô dơ̆ng tui anai, “Tơdah hlơi pô plư kơ ƀing đaŏ kơ Kâo hrup hăng čơđai anet lui hĭ tơlơi đaŏ ñu kơ Kâo, ñu anŭn dưi ƀiă kơ arăng akă hĭ rơsŭng pơtâo ƀơi tơkuai ñu laih anŭn glŏm hĭ ñu amăng ia rơsĭ yơh. 43Laih anŭn tơdah tơngan gih ngă kơ ƀing gih lui hĭ tơlơi đaŏ gih kơ Kâo, brơi kơ ƀing gih čŏng glŏm lui hĭ tơngan anŭn mơ̆ng ƀing gih. Hiam hloh kơ ƀing gih kơnơ̆ng hơmâo sa ƀĕ tơngan dưi mŭt amăng tơlơi hơdip sĭt, jing hiam hloh kơ ƀing gih wơ̆t tơdah hơmâo abih dua ƀĕ tơngan samơ̆ trŭn pơ plei sat Gehenna, jing anih hơmâo apui ƀu thâo thăm hĭ ôh. 44Pơ anih anŭn yơh hơmâo hlăt ƀơ̆ng ƀing gơñu laih anŭn apui čuh ƀing gơñu nanao abih dua ƀu thâo djai hĭ ôh. 45Laih anŭn tơdah tơkai gih ngă kơ ƀing gih lui hĭ tơlơi đaŏ gih kơ Kâo, brơi kơ ƀing gih čŏng glŏm lui hĭ tơkai anŭn mơ̆ng ƀing gih. Hiam hloh kơ ƀing gih kơnơ̆ng hơmâo sa ƀĕ tơkai dưi mŭt amăng tơlơi hơdip sĭt, jing hiam hloh kơ ƀing gih wơ̆t tơdah hơmâo abih dua ƀĕ tơkai samơ̆ trŭn nao pơ plei sat. 46Pơ anih anŭn yơh hơmâo hlăt ƀơ̆ng ƀing gơñu laih anŭn apui čuh ƀing gơñu nanao abih dua ƀu thâo djai hĭ ôh. 47Laih anŭn dơ̆ng tơdah mơta gih ngă kơ ƀing gih lui hĭ tơlơi đaŏ gih kơ Kâo, brơi kơ ƀing gih ƀlăč glŏm lui hĭ bĕ mơta anŭn mơ̆ng ƀing gih. Hiam hloh kơ ƀing gih hơmâo sa sar mơta samơ̆ ƀing gih dưi mŭt amăng dêh čar Ơi Adai, jing hiam hloh kơ ƀing gih wơ̆t tơdah hơmâo dua sar mơta samơ̆ trŭn nao pơ plei sat. 48Anih anŭn jing anih
  “hơmâo hlăt ƀu thâo djai,
   laih anŭn apui ƀu thâo thăm hĭ ôh.”
49“Rĭm čô či tŭ pơrơgoh hĭ mơ̆ng apui kar hăng gơnam ngă yang tŭ pơrơgoh hĭ mơ̆ng hra yơh.
50“Hra jing hiam yơh, samơ̆ tơdah hra rơngiă hĭ ia mơsĭn, hiư̆m pă ƀing gih dưi ngă brơi kơ hra anŭn mơsĭn glaĭ dơ̆ng lĕ? Gih pô khŏm hơmâo hra bĕ laih anŭn hơdip hơdơ̆ng rơnŭk rơno̱m bĕ hăng tơdruă.”