18

Sứ Điệp Của Tiên Tri Ê-li Cho Vua A-háp

1Sau nhiều ngày, vào năm hạn hán thứ ba, có lời của CHÚA đến với Ê-li rằng: “Hãy đi gặp A-háp. Ta sẽ cho mưa xuống đất trở lại.” 2Vậy Ê-li đi đến gặp A-háp.
 Lúc ấy, nạn đói đang hoành hành tại Sa-ma-ri.
3A-háp gọi Áp-đia, quan tổng quản hoàng cung đến. Áp-đia rất kính sợ CHÚA. 4Khi Giê-sa-bên giết hại các tiên tri của CHÚA, thì Áp-đia có đem một trăm tiên tri đi giấu, năm mươi người trong một hang, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ. 5A-háp nói với Áp-đia: “Ngươi hãy đi khắp xứ, hãy đến các suối và các khe, may ra chúng ta sẽ tìm được cỏ để giữ cho ngựa và lừa sống, và chúng ta khỏi phải giết các súc vật của chúng ta hết chăng.” 6Vậy họ chia nhau đi khắp xứ. A-háp đi một hướng, còn Áp-đia đi một hướng khác.
7Đang khi Áp-đia đi đường thì Ê-li gặp ông. Áp-đia nhận ra ông, liền sấp mặt xuống đất, và hỏi: “Thưa có phải chúa tôi đây là Ê-li chăng?”
8Ông trả lời: “Chính tôi đây. Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.”
9Áp-đia đáp: “Tôi có tội tình gì mà ngài muốn trao tôi vào tay A-háp để giết tôi đi? 10Như CHÚA là Đức Chúa Trời hằng sống của ngài chứng giám, chẳng có nước nào hoặc vương quốc nào mà chủ tôi không sai người đến kiếm ngài. Khi người ta bảo rằng ngài không có ở đó, thì ông ấy đòi nước đó hoặc vương quốc đó phải thề là họ không có gặp ngài. 11Nhưng bây giờ ngài bảo tôi: ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.’ 12Nhưng vừa khi tôi rời khỏi ngài thì Thần của CHÚA đem ngài đi đến nơi nào tôi không biết. Rồi khi tôi đến nói cho A-háp, ông ấy đến mà không thấy ngài, ông ấy chắc sẽ giết tôi đi, mặc dù tôi đây, là tôi tớ ngài, đã kính sợ CHÚA từ thuở nhỏ. 13Người ta há không nói cho chúa tôi biết rằng tôi đã làm gì khi Giê-sa-bên giết hại các tiên tri của CHÚA sao, thể nào tôi đã đem giấu một trăm tiên tri của CHÚA, năm mươi người trong một hang, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ sao? 14Bây giờ ngài bảo tôi: ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây’, ông ấy chắc sẽ giết tôi.”
15Nhưng Ê-li đáp: “Có CHÚA Vạn Quân, là Đấng tôi phục vụ, chứng giám, chắc chắn hôm nay tôi muốn gặp chủ của ông.”
16Vậy Áp-đia đi gặp vua A-háp và báo cho vua biết. A-háp liền đi gặp Ê-li.

Tiên Tri Ê-li Và Vua A-háp

17Khi A-háp thấy Ê-li, A-háp nói với ông: “Ngươi, kẻ gây rối cho Y-sơ-ra-ên, có phải ngươi đó chăng?”
18Ê-li đáp: “Không phải tôi gây rối cho Y-sơ-ra-ên, nhưng chính là vua và nhà cha vua. Vì vua và phụ vương của vua đã bỏ các điều răn của CHÚA, và vua lại đi theo các thần Ba-anh. 19Bây giờ xin vua hãy triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên lại gặp tôi ở núi Cạt-mên, cùng với bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh và bốn trăm tiên tri của A-sê-ra, là những kẻ được Giê-sa-bên cấp dưỡng.”

Ê-li Thắng Các Tiên Tri Ba-anh

20Vậy A-háp sai người đi khắp Y-sơ-ra-ên và triệu tập các tiên tri tại núi Cạt-mên. 21Ê-li đến gần dân chúng và nói: “Các ngươi cứ khập khiễng đi hàng hai cho đến chừng nào? Nếu CHÚA là Đức Chúa Trời thì hãy theo Ngài, còn nếu Ba-anh là Đức Chúa Trời thì hãy theo hắn.”
 Nhưng dân chúng lặng thinh.
22Bấy giờ Ê-li nói với dân chúng: “Tôi, chỉ một mình tôi, là tiên tri của CHÚA còn sót lại; nhưng ở đây có bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh. 23Bây giờ hãy cho chúng tôi hai con bò đực. Hãy để họ chọn một con cho họ trước đi. Hãy sả con bò ra từng mảnh, rồi chất trên củi, nhưng không được châm lửa. Tôi sẽ sả con bò kia, chất nó trên củi, nhưng cũng không châm lửa. 24Rồi các ông hãy kêu cầu danh thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh CHÚA. Vị thần nào đáp lời bằng lửa thì vị đó chính là Đức Chúa Trời.”
 Toàn thể dân chúng hiện diện nói: “Đề nghị rất hữu lý!”
25Bấy giờ Ê-li nói với các tiên tri của Ba-anh: “Các ông hãy chọn lấy cho mình một con bò và sả thịt nó trước đi, vì các ông đông người; rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng không được châm lửa đấy nhé.” 26Vậy họ bắt một con bò đực đem đến đó, sả thịt nó ra, rồi kêu cầu danh thần Ba-anh từ sáng đến trưa. Họ cầu rằng, “Lạy thần Ba-anh, xin hãy đáp lời chúng tôi.” Nhưng chẳng có tiếng nào, cũng chẳng có ai trả lời. Họ nhảy khập khiễng xung quanh bàn thờ họ đã dựng.
27Đến trưa Ê-li chế nhạo họ rằng: “Hãy kêu cầu lớn hơn chút nữa. Ba-anh chính là thần đó mà. Có thể thần đang tĩnh tâm, hay là thần bận đi đâu đó, không chừng thần kẹt đi xa, hay là thần đang ngủ cũng có, phải đánh thức thần dậy.” 28Nghe thế họ lại càng kêu cầu lớn hơn nữa, và theo như thói tục của họ, họ lấy gươm và giáo rạch mình đến chảy máu. 29Đến quá trưa, họ vẫn tiếp tục nói tiên tri theo kiểu như thế cho đến giờ dâng tế lễ buổi chiều, nhưng chẳng có tiếng nào đáp lại, cũng chẳng ai trả lời, và chẳng ai quan tâm đến.
30Bấy giờ Ê-li nói với toàn dân: “Hãy đến gần tôi.” Toàn dân kéo lại gần ông. Trước hết, ông sửa lại bàn thờ của CHÚA đã bị sụp đổ. 31Ê-li lấy mười hai phiến đá, theo số chi tộc của các con trai Gia-cốp, là người mà lời của CHÚA đã phán, “Y-sơ-ra-ên sẽ là tên ngươi.” 32Ê-li dùng các phiến đá đó xây lại một bàn thờ cho danh CHÚA. Rồi ông đào một đường mương chung quanh bàn thờ, rộng cỡ chứa được hai thúng hạt giống. 33Kế đến ông sắp củi trên bàn thờ. Đoạn ông sả con bò ra từng mảnh, rồi chất nó trên củi. Xong ông bảo: “Hãy múc đầy bốn bình nước, rồi đem đổ trên của lễ thiêu và củi.”
34Ông bảo họ: “Hãy làm lần thứ nhì.” Họ làm lần thứ nhì. Ông lại bảo họ: “Hãy làm lần thứ ba.” Họ làm lần thứ ba, 35đến nỗi nước chảy ướt đẫm xung quanh bàn thờ và đầy tràn cái mương.
36Đến giờ dâng tế lễ buổi chiều, tiên tri Ê-li đến gần và cầu nguyện rằng: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, I-sác, và Y-sơ-ra-ên. Ngày hôm nay xin Ngài hãy cho thiên hạ biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, rằng con đây là đầy tớ Ngài, và con đã làm mọi sự nầy là do Ngài phán bảo. 37Lạy CHÚA, xin nhậm lời con, để dân nầy biết rằng chính Ngài, Chúa ôi, là Đức Chúa Trời, và sẽ khiến lòng dân nầy quay trở lại.”
38Bấy giờ lửa của CHÚA giáng xuống, thiêu rụi của lễ thiêu, củi, đá, bụi đất, và làm khô hết nước trong mương.
39Khi toàn dân thấy vậy, họ liền sấp mặt xuống đất và nói: “CHÚA quả thật là Đức Chúa Trời! CHÚA quả thật là Đức Chúa Trời!”
40Ê-li nói với họ: “Hãy bắt các tiên tri của Ba-anh. Đừng để thoát một ai.” Họ liền bắt những người ấy. Ê-li đem họ xuống khe Kít-sôn và giết hết họ tại đó.

Cơn Hạn Hán Chấm Dứt

41Ê-li nói với A-háp: “Xin mời vua đi lên, ăn và uống. Vì tôi nghe có tiếng mưa rào.” 42Vậy A-háp đi lên, ăn và uống. Ê-li đi lên đỉnh núi Cạt-mên. Tại đó, ông sấp mặt xuống đất, giữa hai đầu gối.
43Ông nói với người đầy tớ ông: “Hãy đi, nhìn về hướng biển.”
 Người ấy đi, nhìn, rồi trở lại nói: “Con chẳng thấy gì cả.”
 Ông bảo: “Hãy đi trở lại, và làm bảy lần như thế.”
44Lần thứ bảy người ấy nói: “Kìa, con thấy có một đám mây, cỡ bằng bàn tay, đang nổi lên ngoài biển.”
 Ông bảo: “Hãy đến nói với A-háp: ‘Xin vua hãy thắng xe và đi xuống mau, kẻo mưa sẽ giữ vua lại.’ ”
45Chẳng mấy chốc, mây đen kéo đến phủ khắp bầu trời và gió cuồn cuộn thổi. Một trận mưa lớn đổ xuống. A-háp vội vàng lên xe, chạy đến Gít-rê-ên. 46Tay của CHÚA đặt trên Ê-li. Ông thắt lưng và chạy trước xe A-háp, cho đến lúc vào thành Gít-rê-ên.

18

Pô Pơala Êliyah Laih Anŭn Khua Moa Ôbadyah

1Sui ƀiă kơ anŭn, amăng thŭn tal klâo kơ thŭn kho̱ng anŭn, Yahweh pơhiăp hăng Êliyah tui anai, “Nao pơrơđah bĕ ƀô̆ mơta ih pô ƀơi anăp pơtao Ahab yuakơ Kâo či brơi rai ia hơjan ƀơi anih lŏn anai.” 2Tui anŭn, Êliyah nao pơrơđah ƀô̆ mơta ñu pô ƀơi anăp Ahab yơh.
 Hlak anŭn, yuakơ hơmâo tơlơi ư̆ rơpa prŏng biă mă amăng plei phŭn Samaria,
3tui anŭn Ahab iâu rai Ôbadyah, jing pô wai lăng anih sang pơtao ñu. Ôbadyah ăt jing sa čô pô đaŏ hur har kơ Yahweh mơ̆n. 4Tui anŭn, tơdang hơbia HʼYêzebel pơdjai hĭ ƀing pô pơala Yahweh hlâo adih, Ôbadyah hơmâo pơdŏp hĭ laih sa-rơtuh čô pô pơala amăng dua boh pa̱r čư̆. Rơmapluh čô dŏ amăng rĭm pa̱r čư̆ laih anŭn ñu pô djru nanao kơ ƀing gơ̆ gơnam ƀơ̆ng, ia mơñum.
5Ahab pơđar kơ Ôbadyah tui anai, “Brơi kơ ƀing ta nao bĕ amăng anih lŏn anai, pơ djŏp anih hơmâo ia bluh laih anŭn pơ djŏp dơnung. Năng ai ƀing ta dưi hơduah ƀuh rơ̆k brơi kơ khul aseh laih anŭn aseh glưn ta ƀơ̆ng. Tui anŭn, ƀing ta ƀu či khŏm pơdjai hĭ ôh khul hlô mơnơ̆ng ta yuakơ ƀu hơmâo ôh rơ̆k kơ khul hlô mơnơ̆ng anŭn.” 6Tui anŭn, ƀing gơñu pơpha anih lŏn kiăng kơ găn nao yơh. Ahab anăp nao pơ anih gah anai laih anŭn Ôbadyah anăp nao pơ anih gah adih.
7Tơdang Ôbadyah hlak rơbat nao, Êliyah blĭp blăp rai bưp ñu. Ôbadyah thâo krăn pô pơala Êliyah mơtam, tui anŭn ñu bon kơkuh ƀơi lŏn laih anŭn laĭ tui anai, “Sĭt ih hă, Ơ khua kâo Êliyah?”
8Êliyah laĭ glaĭ tui anai, “Ơ kâo yơh anai. Nao ruai bĕ kơ khua ih pơtao Ahab tui anai, ‘Êliyah dŏ pơ anai.’ ”
9Ôbadyah tơña tui anai, “Hơget tơlơi kâo hơmâo ngă soh tơl ih kiăng jao hĭ kâo, jing ding kơna ih anai, kiăng kơ Ahab pơdjai hĭ lĕ? 10Kâo ƀuăn hăng tơlơi hơdip Yahweh Ơi Adai ih, ƀu hơmâo ôh kơnung djuai pă, čar pă khua kâo pơtao Ahab ƀu pơkiaŏ ôh mơnuih nao kiăng kơ hơduah sem ih. Laih anŭn tơdang kơnung djuai pă, čar pă laĭ ih ƀu dŏ pơ lŏn čar anŭn ôh, ñu pơtă kơ ƀing gơ̆ ƀuăn rơ̆ng kơ tơlơi ƀing gơ̆ ƀu hơduah ƀuh ih ôh. 11Samơ̆ ră anai ih kiăng kơ kâo nao ruai pơ khua kâo tui anai, ‘Pô pơala Êliyah dŏ pơ anai.’ 12Kâo ƀu thâo ôh anih pă Yang Bơngăt Yahweh či ba pơđuaĭ hĭ ih tơdang kâo đuaĭ hĭ mơ̆ng ih. Tơdah kâo nao laih anŭn ruai hăng Ahab laih anŭn tơdang ñu rai pơ anai samơ̆ hơduah ƀu ƀuh ih ôh, sĭt ñu či pơdjai hĭ kâo yơh. Laih dơ̆ng kâo, ding kơna ih anai, hơmâo kơkuh pơpŭ kơ Yahweh čơdơ̆ng mơ̆ng hlak ai. 13Ih hơmâo hơmư̆ mơ̆, Ơ khua kâo hơi, kơ tơlơi kâo ngă laih tơdang hơbia HʼYêzebel pơdjai hĭ ƀing pô pơala Yahweh? Kâo pơdŏp hĭ laih sa-rơtuh čô ƀing pô pơala amăng dua boh pa̱r čư̆; hơmâo rơmapluh čô amăng rĭm pa̱r čư̆ laih anŭn ăt djru kơ ƀing gơ̆ gơnam ƀơ̆ng, ia mơñum mơ̆n. 14Laih anŭn ră anai ih kiăng kơ kâo nao ruai pơ khua kâo tui anai, ‘Pô pơala Êliyah dŏ pơ anai.’ Tơdah kâo ngă tui anŭn, ñu či pơdjai hĭ kâo yơh!”
15Êliyah laĭ kơ Ôbadyah tui anai, “Kâo ƀuăn hăng Khua Yang Yahweh, jing Pô kâo kơkuh pơpŭ, kâo či pơrơđah ƀô̆ mơta kâo pô ƀơi anăp pơtao Ahab hrơi anai yơh.”

Pô Pơala Êliyah Ƀơi Čư̆ Karmel

16Tui anŭn, Ôbadyah nao bưp khua ñu, pơtao Ahab, laih anŭn ruai hăng ñu, tui anŭn Ahab nao bưp Êliyah yơh. 17Tơdang ñu ƀuh Êliyah, ñu laĭ kơ gơ̆ tui anai, “Sĭt ih hă Êliyah, jing pô pơrŭng pơrăng ƀing Israel?”
18Êliyah laĭ glaĭ tui anai, “Ƀu djơ̆ kâo ôh jing pô pơrŭng pơrăng ƀing Israel ôh, samơ̆ ih laih anŭn ƀing sang anŏ ama ih yơh jing ƀing pơrŭng. Ƀing gih hơmâo đuaĭ ataih laih mơ̆ng khul tơlơi Yahweh pơđar laih anŭn ih pô ăt nao kơkuh pơpŭ kơ ƀing yang rơba̱ng Baal mơ̆n. 19Ră anai iâu pơƀut glaĭ bĕ abih bang ƀing ană plei Israel nao bưp kâo ƀơi čư̆ Karmel anai. Laih anŭn ăt djă̱ ba bĕ pă̱-rơtuh rơmapluh čô ƀing pô pơala yang rơba̱ng Baal wơ̆t hăng pă̱-rơtuh čô pô pơala yang HʼAsêrah mơ̆n, jing ƀing hơbia HʼYêzebel răk rong.”
20Tui anŭn, Ahab pơkiaŏ arăng laĭ pơthâo djŏp anih amăng ƀing Israel laih anŭn pơƀut glaĭ abih bang ƀing pô pơala anŭn ƀơi čư̆ Karmel. 21Êliyah nao dŏ dơ̆ng ƀơi anăp ƀing ană plei laih anŭn laĭ tui anai, “Hơbĭn sui dơ̆ng ƀing gih ăt dŏ rơbat dua gah jơlan lĕ? Tơdah Yahweh jing Ơi Adai, đuaĭ tui Ñu bĕ! Samơ̆ tơdah Baal jing Ơi Adai, đuaĭ tui ñu bĕ!” Samơ̆ ƀing ană plei ƀu pơhiăp hơget gĕt ôh.
22Giŏng anŭn, Êliyah pơhiăp hăng ƀing ană plei tui anai, “Kơnơ̆ng hơjăn kâo yơh jing pô pơala Yahweh dŏ so̱t, samơ̆ ƀing pô pơala Baal hơmâo truh kơ pă̱-rơtuh rơmapluh čô. 23Brơi bĕ arăng ba rai dua drơi rơmô tơno kơ ƀing ta kiăng kơ pơyơr čuh. Brơi bĕ ƀing pô pơala anŭn ruah mă sa drơi kơ gơñu pô laih anŭn khăt hĭ lu črăn hăng pioh bĕ ƀơi ngŏ djŭh samơ̆ anăm tuč mŭt apui ôh. Kâo ăt či pơkra rơmô adih hăng pioh ƀơi djŭh aka ƀu tuč mŭt apui mơ̆n. 24Giŏng anŭn, brơi kơ ƀing gơñu iâu bĕ anăn yang rơba̱ng gơñu laih anŭn kâo či iâu ƀơi anăn Yahweh. Yang pă laĭ glaĭ hăng brơi rai apui čuh gơnam pơyơr anŭn, Ñu anŭn yơh jing Ơi Adai.”
 Tui anŭn, abih bang ană plei laĭ tui anai, “Tơlơi ih laĭ anŭn jing djơ̆ yơh!”
25Giŏng anŭn, Êliyah pơhiăp hăng ƀing pô pơala Baal tui anai, “Ruah mă bĕ sa drơi rơmô tơno laih anŭn pơkra hlâo bĕ, yuakơ ƀing gih hơmâo lu mơnuih đơi. Iâu bĕ ƀơi anăn yang rơba̱ng gih, samơ̆ anăm tuč mŭt apui ôh.” 26Tui anŭn, ƀing gơñu mă rơmô tơno arăng brơi kơ ƀing gơñu laih anŭn pơkra kơ tơlơi pơyơr čuh anŭn yơh.
 Giŏng anŭn, ƀing gơñu iâu ƀơi anăn Baal čơdơ̆ng mơ̆ng mơguah hlŏng truh kơ yang hrơi dơ̆ng. Ƀing gơñu ur tui anai, “Ơ Baal, laĭ glaĭ kơ ƀing gơmơi bĕ!” Samơ̆ ƀu hơmâo tơlơi truh hơget ôh, kŏn hơmâo hlơi pô laĭ glaĭ lơi. Laih anŭn ƀing gơñu yŭn suang jum dar kơnưl ƀing gơñu hơmâo pơkra laih.
27Ƀơi yang hrơi dơ̆ng Êliyah čơdơ̆ng pơhiăp djik kơ ƀing gơñu yơh. Ñu laĭ tui anai, “Ur dreo đĭ kơtang ƀiă dơ̆ng! Sĭt yơh ñu jing yang! Năng ai ñu hlak pơhiăp hăng ƀing djru pơmĭn ñu, hlak juă glai ƀôdah đuaĭ hyu. Năng ai ñu hlak pĭt tui anŭn ƀing gih khŏm râo mơdưh ñu bĕ.” 28Tui anŭn, ƀing gơñu ur kơtang hloh dơ̆ng tui hăng tơlơi phiăn ƀing gơñu juăt ngă yơh laih anŭn ƀing gơñu brĕh drơi jan gơñu pô hăng khul đao, khul tơbăk tơl drah ƀlĕ tơbiă. 29Rơgao hĭ kơ yang hrơi dơ̆ng, ƀing gơñu ăt pơhiăp ča čot kar hăng anŭn truh kơ mông arăng juăt pơyơr gơnam ngă yang kơnăm mơmŏt. Samơ̆ ƀu hơmâo tơlơi truh hơget ôh, kŏn hơmâo hlơi pô laĭ glaĭ lơi, ƀu hơmâo hlơi pô pơđi̱ng tơngia hơmư̆ kơ tơlơi gơñu iâu ôh.
30Giŏng anŭn, Êliyah pơhiăp hăng abih bang ƀing ană plei tui anai, “Rai bĕ pơ kâo.” Ƀing gơ̆ rai pơ ñu laih anŭn ñu pơkra glaĭ kơnưl Yahweh, jing kơnưl hơmâo răm laih hlâo adih. 31Êliyah mă pluh-dua boh pơtâo, rĭm boh pơtâo pơala kơ rĭm kơnung djuai rai mơ̆ng Yakôb jing pô Yahweh pơanăn Israel. 32Ñu pơdơ̆ng đĭ kơnưl ngă yang hăng boh pơtâo anŭn amăng anăn Yahweh laih anŭn ñu klơi jum dar kơnưl anŭn hơnŏh anet djŏp kơ pă̱ čeh ia. 33Ñu dap djŭh ƀơi kơnưl, khăt rơmô tơno anŭn jing lu črăn laih anŭn pioh ƀơi ngŏ djŭh anŭn. Giŏng anŭn, ñu laĭ kơ ƀing ană plei dŏ jĕ anŭn, “Nao sŏ pơbă bĕ ia amăng pă̱ boh čeh anai laih anŭn tuh ia anŭn ƀơi gơnam ngă yang laih anŭn ƀơi djŭh.”
34Êliyah pơđar dơ̆ng tui anai, “Ngă kar hăng anŭn dơ̆ng bĕ.” Tui anŭn, ƀing gơñu nao ngă kar hăng anŭn dơ̆ng.
 Ñu pơđar dơ̆ng tui anai, “Ngă bĕ kar hăng anŭn tal klâo dơ̆ng.” Laih anŭn ƀing gơ̆ ngă kar hăng anŭn tal klâo dơ̆ng.
35Ia rô trŭn mơ̆ng kơnưl laih anŭn pơbă hĭ hơnŏh jum dar yơh.
36Ƀơi mông pơyơr gơnam ngă yang, pô pơala Êliyah yak nao pơanăp jĕ kơnưl laih anŭn iâu laĭ tui anai, “Ơ Yahweh, jing Ơi Adai kơ ƀing ơi adon gơmơi Abraham, Isa̱k laih anŭn Israel, pơrơđah bĕ hrơi anai Ih yơh jing Ơi Adai amăng ƀing Israel laih anŭn kâo, ding kơna Ih anai, hơmâo ngă abih bang tơlơi anai tui hăng Ih pơđar kơ kâo yơh. 37Laĭ glaĭ kơ kâo bĕ, Ơ Yahweh hơi, laĭ glaĭ kơ kâo bĕ, kiăng kơ abih bang ană plei anai či thâo krăn Ih, Ơ Yahweh, jing Ơi Adai, laih anŭn Ih hlak pơwir glaĭ pran jua gơñu kơ Ih dơ̆ng yơh.”
38Giŏng anŭn, apui Yahweh blĭp rai laih anŭn čuh hĭ gơnam ngă yang, djŭh, khul boh pơtâo, lŏn laih anŭn hlia ƀơ̆ng wơ̆t hăng ia amăng hơnŏh jum dar kơnưl anŭn mơ̆n.
39Tơdang abih bang ƀing ană plei ƀuh tơlơi anŭn, ƀing gơñu bon kơkuh laih anŭn ur đĭ tui anai, “Yahweh yơh jing Ơi Adai! Kơnơ̆ng hơjăn Yahweh đôč yơh jing Ơi Adai!”
40Giŏng anŭn, Êliyah pơđar ƀing gơñu tui anai, “Kơsung mă bĕ abih bang ƀing pô pơala Baal! Anăm brơi ôh sa čô amăng ƀing gơñu tơklaih hĭ!” Tui anŭn, ƀing ană plei mă hĭ ƀing pô pơala anŭn laih anŭn Êliyah ba ƀing gơñu nao pơ čroh ia Kisôn, laih anŭn pơdjai hĭ abih bang pơ anŭn yơh.
41Giŏng anŭn, Êliyah laĭ kơ pơtao Ahab tui anai, “Nao ƀơ̆ng huă hăng mơñum bĕ, yuakơ hơmâo laih dơnai jua ia hơjan prŏng.” 42Tui anŭn, Ahab nao, ƀơ̆ng huă hăng mơñum, samơ̆ Êliyah đĭ nao pơ kơčŏng čư̆ Karmel. Ñu dŏ be̱r ƀơi lŏn laih anŭn akŭp akŏ ñu ƀơi tơŭt tơkai ñu, 43laih anŭn pơtă kơ ding kơna ñu tui anai, “Nao lăng anăp nao bĕ pơ ia rơsĭ.” Tui anŭn, gơ̆ đĭ nao lăng laih anŭn laĭ tui anai, “Ƀu ƀuh hơget gĕt ôh.”
 Tơjuh wơ̆t Êliyah pơđar kơ gơ̆ tui anai, “Wơ̆t glaĭ bĕ.”
44Ƀơi tal tơjuh ding kơna ñu laĭ tui anai, “Hơmâo ƀiă kơthul anet đơr hăng păh tơngan hlak rai mơ̆ng ia rơsĭ.”
 Tui anŭn, Êliyah pơtă tui anai, “Nao ruai bĕ kơ Ahab, ‘Tañ đĭ rơdêh aseh ih laih anŭn đuaĭ trŭn bĕ, huĭdah hơjan či pơkơ̆ng glaĭ hĭ ih.’ ”
45Tơdang anŭn adai jing hĭ kơnăm mơmŏt bă hăng kơthul, hơmâo angĭn thut kơtang, ia hơjan prŏng rai laih anŭn Ahab đuaĭ hĭ pơ plei pơnăng Yêreel yơh. 46Tơlơi mơyang Yahweh rai ƀơi Êliyah laih anŭn ñu hruă ao jao ƀơi kơiăng ñu laih anŭn đuaĭ nao hlâo kơ Ahab truh pơ plei Yêreel.