9

Exalas Paub Cov Yixalayees uas Yuav Lwm Haivneeg

1Tom qab uas ua tej ntawd tiav tas lawm, cov Yixalayees cov thawjcoj qee leej tuaj hais qhia rau kuv hais tias cov Yixalayees, cov povthawj, thiab cov Levis tsis cais lawv tawm ntawm tej neeg zejzog uas yog cov Amoos, cov Mau-am, thiab cov Iziv lossis cov Kana-as, cov Hitis, cov Pelixes, cov Yenpus thiab cov Amaules. Lawv pheej ua tej kev phem ib yam li cov neeg ntawd ua thiab. 2Vim cov Yudas tau mus yuav lwm haivneeg cov ntxhais los ua pojniam; yog li ntawd, lawv thiaj ua rau haivneeg dawbhuv nrog cov neeg uas nyob hauv lub tebchaws ntawd sib xyaw. Tej kev uas ua tsis ncaj tsis ncees no twb yog cov thawjcoj thiab cov nomtswv ntaus thawj ua ntag. 3Thaum kuv hnov txog tej ntawd, kuv thiaj li dua rhe kuv lub tsho, dob kuv cov plaubhau, kuv cov hwjtxwv thiab kuv zaum ua ntsejmuag mluas mlob tu siab kawg li. 4Kuv zaum qhov ntawd tu siab kawg mus txog lub caij fij khoom thaum yav tsaus ntuj, thiab cov pejxeem txawm pib tuaj sawv vij kuv. Tagnrho sawvdaws puavleej txhawj thiab ntshai kawg, rau qhov cov Yixalayees tus Vajtswv hais txog cov neeg uas raug ntes mus rau lwm lub tebchaws thiab tau rov los ntawd tej kev txhaum.
5Thaum yuav tsaus ntuj uas txog lub caij fij tej khoom, kuv thiaj sawv ntawm qhov chaw uas kuv zaum ntawd mus, tiamsis kuv tseem hnav rawv kuv lub tsho uas kuv muab dua ntuag tas ntawd, kuv thiaj txhos caug ntua tsa kuv ob txhais tes thov tus TSWV uas yog kuv tus Vajtswv. 6Kuv thov hais tias, “Vajtswv, kuv txajmuag kawg nkaus, kuv tsis tsa taubhau saib tuaj rau ntawm koj qhov chaw nyob. Peb tej kev txhaum siab tshaj peb taubhau lawm thiab; tej kev txhaum ntawd siab nto ntuj lawm. 7Txij thaum peb cov yawgkoob los txog niaj hnub no, peb cov uas yog koj haivneeg tau ua kev txhaum loj kawg li. Vim peb tej kev txhaum thiaj ua rau peb, peb cov vajntxwv thiab cov povthawj poob mus rau tej vajntxwv txawv tebchaws tes, peb thiaj raug luag tua, raug luag huab thiab raug luag ntes coj mus lawm. 8Tus TSWV uas yog peb tus Vajtswv, tau ib nyuag ntu tas los koj tau hlub peb, cia peb kovyeej thiab khiav dim ntawm txojkev ua luag qhev thiab tau los nyob thajyeeb lug hauv lub chaw dawbhuv no. Koj tau coj peb khiav tawm ntawm qhov chaw uas ua luag qhev los thiab pub peb muaj lub neej tshiab. 9Peb twb poob mus ua luag qhev lawm, tiamsis koj tsis cia peb ua luag qhev mus li. Koj thiaj tau tshoov Pawxias cov huabtais siab kom lawv hlub peb, nyiam peb, thiab ua ntawv tso cai rau peb rov los nyob hauv no thiab txhim kho koj lub Tuamtsev uas puastsuaj tas lawm dua tshiab, thiab pub peb tau nyob thajyeeb lug hauv lub xeev Yudas thiab hauv lub nroog Yeluxalees.
10“Vajtswv, nimno peb yuav hais tau dabtsi tom qab uas tej xwm no twb tshwmsim muaj lawm? Vim peb rov tsis mloog koj tej lus samhwm, 11uas koj tau muab cob rau peb los ntawm koj cov tubtxib uas yog cov cev Vajtswv lus. Lawv qhia rau peb hais tias lub tebchaws uas peb yuav mus txeeb nyob, yog lub tebchaws uas muaj kev tsis ncaj ncees, rau qhov cov neeg uas nyob hauv lub tebchaws ntawd ua tej kev phem kev qias puv nkaus sab tebchaws no mus ti nkaus sab tebchaws kawg tom ub. 12Lawv qhia hais tias, yog peb xav ntsib kev tau zoo thiab nyob kaj siab lug hauv lub tebchaws ntawd, thiab xav tau lub tebchaws ntawd rau peb tej xeebntxwv nyob mus ibtxhis, kom peb tsis txhob pub peb tej tub tej ntxhais mus yuav cov neeg ntawd tej tub tej ntxhais, thiab tsis txhob txhawb lawv tej kev vammeej lossis txojkev tau zoo hlo li. 13Txawm yog hais tias peb twb raug txim vim tej kev phem kev qias uas peb tau ua thiab tej uas peb tau yuam kev ua txhaum loj heev ntawd los peb paub tseeb hais tias koj uas yog peb tus Vajtswv twb tsis tau rau txim kom tsimnyog tej kev txhaum uas peb ua ntawd, thiab koj tseem cia peb muaj txojsia nyob. 14Xyov yog vim li cas peb cia li tsis quavntsej koj tej lus samhwm thiab cia li mus yuav cov neeg ua phem ntawd tej ntxhais los ua pojniam lawm thiab? Yog peb tau ua lawm tiag, koj yuav chim heev rau peb thiab rhuav kom peb puastsuaj tas tsis pub ib tug seem li. 15Tus TSWV uas yog cov Yixalayees tus Vajtswv, koj yog tus uas ncaj ncees, tiamsis koj tseem cia peb muaj sia nyob. Peb lees peb tej kev txhaum rau koj; yeej tsis tsimnyog peb tuaj rau ntawm koj lub xubntiag.”

9

E-xơ-ra cấm dân Y-sơ-ra-ên cưới người ngoại

1Sau các việc ấy, những người lãnh đạo đến nói với tôi: “Dân Y-sơ-ra-ên, kể cả những thầy tế lễ và người Lê-vi đều không sống tách biệt với các dân tộc trong xứ, nhưng bắt chước theo những tập tục ghê tởm của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, dân Am-môn, dân Mô-áp, dân Ai Cập, và dân A-mô-rít. 2Họ và con trai họ đã lấy con gái chúng làm vợ, làm cho dòng dõi thánh đã bị pha trộn với các dân tộc trong xứ. Chính các viên chức và những người lãnh đạo lại là những kẻ phạm tội nặng nhất.”
3Khi nghe các lời ấy, tôi xé áo trong và áo tơi mình, bứt râu, nhổ tóc trên đầu rồi ngồi buồn bã. 4Tất cả những người họp lại chung quanh tôi đều run sợ trước lời Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên vì tội bất trung mà những người bị lưu đày trở về đã phạm; còn tôi thì kinh hoàng ngồi đó cho đến khi dâng tế lễ buổi chiều.

Lời cầu nguyện của E-xơ-ra

5Đến giờ dâng tế lễ buổi chiều, tôi đứng dậy khỏi nơi khổ nhục, áo trong và áo tơi bị xé rách, rồi quỳ gối xuống, giơ tay hướng về Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi 6mà thưa với Ngài:
 “Lạy Đức Chúa Trời của con, con xấu hổ thẹn thùng không dám ngước mặt lên Ngài là Đức Chúa Trời của con, vì sự gian ác của chúng con cứ chồng chất trên đầu chúng con, và tội lỗi của chúng con cao đến tận trời.
7Từ thời tổ phụ chúng con cho đến ngày nay, chúng con đã phạm tội nghiêm trọng. Vì tội ác mình cho nên chúng con, các vua và những thầy tế lễ của chúng con đều bị phó vào tay các vua nước ngoài, bị gươm đao, bị bắt làm nô lệ, bị cướp bóc, và bị sỉ nhục cho đến ngày nay. 8Nhưng bây giờ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con đã làm ơn cho chúng con, để một phần sót lại của chúng con thoát khỏi, và ban cho chúng con một đền thờ trong chỗ thánh nầy hầu cho Đức Chúa Trời chúng con làm cho mắt chúng con được sáng và chúng con được hồi sinh phần nào từ cảnh lưu đày. 9Vì chúng con vốn là những kẻ nô lệ nhưng Đức Chúa Trời của chúng con không bỏ mặc chúng con trong cảnh lưu đày ấy. Ngài đã cho chúng con được ơn trước mặt các vua Ba Tư, khiến chúng con hồi sinh để về tái thiết đền thờ Đức Chúa Trời chúng con, trùng tu những nơi đổ nát, và ban cho chúng con một chỗ ở an ninh trong xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem.
10Bây giờ, lạy Đức Chúa Trời của chúng con, sau những điều nầy, chúng con sẽ nói làm sao? Vì chúng con đã lìa bỏ những điều răn của Ngài. 11Ngài đã dùng các nhà tiên tri là đầy tớ Ngài mà phán dạy chúng con rằng: ‘Xứ mà các con sẽ vào chiếm lấy đó là một xứ bị ô uế bởi sự ô uế của các dân tộc trong xứ. Bằng những tập tục ghê tởm, chúng đã làm ô uế khắp nơi trong xứ ấy. 12Vì thế, đừng gả con gái các con cho con trai của chúng và cũng đừng cưới con gái của chúng cho con trai của các con. Cũng đừng tìm kiếm thịnh vượng hoặc sự bình an của chúng, để các con trở nên mạnh mẽ, ăn hoa lợi của xứ, và để đất ấy lại cho con cái của các con làm cơ nghiệp đời đời.’ 13Sau những tai họa đã giáng trên chúng con do các việc ác và tội trọng của chúng con, — lạy Đức Chúa Trời của chúng con ôi! Thật Chúa không phạt tội lỗi chúng con như đáng phải bị phạt, mà lại ban cho chúng con được phần sót lại như thế nầy, — 14vậy lẽ nào chúng con lại vi phạm các điều răn của Chúa, kết hôn với các dân theo những thói tục ghê tởm nầy nữa sao? Cơn thịnh nộ của Chúa sẽ không giáng trên chúng con, tiêu diệt chúng con đến nỗi không còn ai sót lại hoặc trốn thoát sao? 15Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Chúa thật công chính! Chúng con chỉ là một số ít người còn sót lại như đã thấy ngày nay. Nầy chúng con đang ở trước mặt Chúa, đầy dẫy tội lỗi, mặc dù chẳng ai có thể đứng nổi trước mặt Ngài trong tình trạng như vậy.”