8

Cov Neeg uas Nrog Exalas Rov Los

1Ntawm no mus yog cov thawjcoj ntawm tej cuab kwvtij ntawm cov xeem uas raug luag ntes mus rau tim tebchaws Npanpiloos thiab cov tau nrog Exalas rov los rau hauv Yeluxalees thaum uas Ataxawxes ua huabtais kav tebchaws:
  2-14Nkesoos yog Finehas cuab kwvtij
  Daniyees yog Ithamas cuab kwvtij Sekaniyas tus tub Hatus yog Daviv cuab kwvtij
  Xakhaliyas yog Paluses cuab kwvtij nrog ib puas tsib caug leej txivneej ntawm nws cuab kwvtij (lawv puavleej sau npe raws li lawv cajces tsevneeg)
  Xakhaliyas tus tub Elihaunais yog Pahas Mau-am cuab kwvtij nrog ob puas leej txivneej
  Yahaxiyees tus tub Sekaniyas yog Xatus cuab kwvtij nrog peb puas leej txivneej
  Yaunathas tus tub Enpes yog Adines cuab kwvtij nrog tsib caug leej txivneej
  Athaliyas tus tub Yesaiyas yog Elas cuab kwvtij nrog xya caum leej txivneej
  Mikhayees tus tub Xenpadiyas yog Sefatiyas cuab kwvtij nrog yim caum leej txivneej
  Yehiyees tus tub Aunpadiyas yog Yau-am cuab kwvtij nrog ob puas kaum yim leej txivneej
  Yausifiyas tus tub Selaumis yog Npanis cuab kwvtij nrog ib puas rau caum leej txivneej
  Npenpais tus tub Xakhaliyas yog Npenpais cuab kwvtij nrog nees nkaum yim leej txivneej
  Hakatas tus tub Yauhanas yog Ankas cuab kwvtij nrog ib puas kaum leej txivneej
  Elifeles, Ye-ules thiab Semayas yog Adunikas cuab kwvtij nrog rau caum leej txivneej (lawv yog cov uas tom qab no mam los)
  Uthais thiab Xakules yog Npivais cuab kwvtij nrog xya caum leej txivneej.

Exalas Nrhiav Cov Levis Los ua Haujlwm Hauv Lub Tuamtsev

15Kuv hu tagnrho txhua pab tuaj sib sau rau ntawm tus kwj deg uas ntws mus rau hauv lub nroog Ahavas, thiab peb tsuam chaw so rau ntawd tau peb hnub. Kuv nrhiav saib puas muaj cov povthawj nyob rau hauv tej pab ntawd, tiamsis tsis pom muaj ib tug twg yog Levis li. 16Kuv thiaj txib neeg mus hu cuaj tug thawjcoj uas muaj npe li no: Eli-exes, Aliyees, Semayas, Enathas, Yalis, Enathas, Nathas, Xakhaliyas thiab Mesulas, thiab hu ob tug xibhwb uas yog Yauyalis thiab Enathas nrog lawv tuaj. 17Kuv thiaj txib lawv mus cuag Idaus uas yog tus thawjcoj pawg neeg uas nyob ntawm thaj chaw Kaxifi-as. Kuv muab lus rau lawv mus hais rau nws, nws cov phoojywg thiab cov tu lub Tuamtsev kom tso neeg tuaj nrog peb mus tu peb tus Vajtswv lub Tuamtsev. 18Vim Vajtswv txojkev hlub, lawv thiaj tso Selenpiyas uas yog ib tug muaj peevxwm heev tuaj rau peb; nws yog xeem Levis uas yog Malis cuab kwvtij, thiab nws coj kaum yim leej uas yog nws cov tub thiab nws cov kwvtij nrog nws tuaj thiab. 19Lawv tseem tso Hasanpiyas thiab Yesaiyas uas yog Melalis xeebntxwv nrog rau nkawd cov kwvtij nees nkaum leej tuaj. 20Dua li ntawd, tseem tso ob puas nees nkaum leej uas yeej ua haujlwm hauv lub tuamtsev, yog cov uas thaum Vajntxwv Daviv thiab nws cov nomtswv tau tsa lawv cov yawgkoob los pab cov Levis lawm. Puavleej teev lawv cov no tej npe huv tibsi cia.

Exalas Coj Cov Pejxeem ua Kevcai Yoo Mov Thov Vajtswv

21Thaum peb tseem nyob hauv tus Kwj Deg Ahavas kuv tau hais kom peb sawvdaws ua kevcai yoo mov thiab txo hwjchim tabmeeg peb tus Vajtswv thiab thov kom nws coj peb taug kev thiab tsomkwm peb thiab peb tej menyuam, thiab tagnrho peb tej khoom. 22Kuv txajmuag mus tsa ncauj thov huabtais kom tso nws cov tubrog caij nees nrog peb mus ua cov tiv thaiv tej yeebncuab thaum peb taug kev, rau qhov kuv twb hais rau nws lawm hais tias peb tus Vajtswv yeej foom koob hmoov rau txhua tus uas cia siab rau nws, tiamsis nws tsis txaus siab thiab rau txim rau cov neeg uas tso nws tseg lawm. 23Yog li ntawd, peb thiaj li yoo mov thiab thov Vajtswv ua tus tsomkwm peb, thiab nws tau teb peb tej lus thov.

Tej Khoom Pub rau lub Tuamtsev

24Kuv thiaj xaiv cov povthawj kaum ob leeg ua cov thawjcoj: Selenpiyas, Hasanpiyas thiab kaum leej. 25Ces kuv thiaj muab tej nyiaj tej kub thiab tej tais uas huabtais thiab nws cov tuavxam, cov nomtswv, thiab cov Yixalayees muab coj los siv rau hauv lub Tuamtsev ntawd los luj, thiab kuv muab cob rau cov povthawj. 26-27Ntawm no yog tej uas kuv muab cob rau lawv:

8

Gia phả những kẻ hồi hương

1Đây là tên và gia phả các nhà lãnh đạo cùng về nước với tôi: 2Ghẹt-sôn thuộc dòng Phi-nê-a, Đa-ni-ên thuộc dòng Y-tha-ma, Hát-túc (con Sê-ca-nia) thuộc dòng Đa-vít, 3Xa-cha-ri thuộc dòng Pha-rốt và một trăm năm mươi người khác thuộc dòng Phu-rốt và dòng Sê-ca-nia, 4Ê-li-ô-ê-nai (con Xê-ra-hi-gia) thuộc dòng Pha-hát Mô-áp và hai trăm người khác, 5một người con của Gia-ha-xi-ên thuộc dòng Sê-ca-nia và ba trăm người khác, 6Ê-bết (con Giô-na-than) thuộc dòng A-đin và năm mươi người khác, 7Ê-sa (con A-tha-lia) thuộc dòng Ê-lam và bảy mươi người khác, 8Xê-ba-đia (con Mi-ca-ên) thuộc dòng Sê-pha-tia và tám mươi người khác, 9Áp-đia (con Giê-hi-ên) thuộc dòng Giô-áp và hai trăm mười tám người khác, 10một người con của Giô-si-phia, thuộc dòng Sê-lô-mít và một trăm sáu mươi người khác, 11Xa-cha-ri (con Bê-bai) thuộc dòng Bê-bai và hai mươi tám người khác, 12Giô-ha-nan (con Ha-ca-tan) thuộc dòng A-gát và một trăm người khác, 13Ê-phi-lết, Giê-u-ên Sê-ma-gia thuộc dòng A-đô-ni-cam và mươi người khác (những người này đến sau), 14U-tai và Xáp-bút thuộc dòng Biết-vai và bảy mươi người khác.
15Tôi tập họp họ bên dòng sông A-ha-va và cắm trại tại đấy trong ba ngày. Khi tôi kiểm điểm nhân số, thấy chỉ có thường dân và thầy tế lễ còn người Lê-vi, không thấy ai cả. 16Vì thế tôi cho mời những nhà lãnh đạo Ê-li-ê-xe, A-ri-ên, Sê-ma-gia, Ê-na-than, Gia-ríp, Ên-na-than, Na-than, Xa-cha-ri và Mê-su-lam. Tôi cũng mời Giô-gia-ríp và Ên-na-than là hai người có kiến thức sâu rộng. 17Tôi cử họ đến gặp Y-đô, một nhà lãnh đạo tại Ca-si-phia, để xin Y-đô, các anh em ông và những người phục dịch Đền thờ gửi đến cho chúng tôi những người có thể đảm nhiệm các chức vụ trong Đền thờ Thượng Đế. 18Nhờ Thượng Đế phù hộ, họ đưa đến cho chúng tôi Sê-rê-bia một người khôn ngoan, thuộc dòng Mách-li con Lê-vi, cháu Y-sơ-ra-ên. Cùng đến với ông có các con và anh em ông gồm mười tám người, 19Ha-sa-bia và Ê-sai thuộc dòng Mê-ra-ri, các con và anh em của họ gồm hai mươi người, 20và hai trăm hai mươi người phục dịch Đền thờ (Quy chế của những người phục dịch Đền thờ được vua Đa-vít và các quan trong triều thiết lập, mục đích cho họ phụ tá người Lê-vi). Tên những người này đều được ghi vào danh sách.
21Bên sông A-ha-va, tôi yêu cầu mọi người kiêng ăn, tỏ lòng khiêm tốn trước Thượng Đế, xin Ngài cho chúng tôi và con cái cùng của cải được bình an trong lúc đi đường. 22Tôi nghĩ xin vua cho quân đội theo hộ tống là một điều xấu hổ, vì tôi có nói với vua: Thượng Đế chúng tôi phù hộ những ai tìm cầu Ngài, nhưng trừng trị những ai từ bỏ Ngài.
23Vì thế chúng tôi kiêng ăn để cầu xin Chúa cho thượng lộ bình an, và Thượng Đế đã nhậm lời.
24Trong số các thầy tế lễ, tôi chọn mười hai người đứng đầu: Sê-rê-bia, Ha-sa-bia và mười người khác. 25Tôi giao cho họ bạc, vàng, dụng cụ Đền thờ, và những phẩm vật hoàng đế, các quân sư Ba-by-luân, các nhà lãnh đạo và nhân dân Y-sơ-ra-ên dâng cho đền thờ. 26Tôi cân các vật ấy, được sáu trăm năm mươi ta lâng bạc, một trăm ta lâng gồm các dụng cụ bằng bạc, một trăm ta lâng gồm các dụng cụ bằng vàng, 27hai mươi cái bát vàng nặng một ngàn đa riếc. Cũng có hai dụng cụ bằng đồng thượng hạng, có giá trị như vàng. 28Tôi bảo họ: "Các ông là người thánh của Chúa. Vàng bạc và các dụng cụ này cũng là thánh, vì đã được dâng cho Thượng Đế Hằng Hữu của các tổ tiên. 29Xin các ông giữ cẩn thận, giao lại đầy đủ cho các thầy tế lễ cao cấp, người Lê-vi, các trưởng tộc Y-sơ-ra-ên trong Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem." 30Vậy các thầy tế lễ và người Lê-vi nhận vàng bạc, và các dụng cụ Đền thờ để đem về Giê-ru-sa-lem.
31Ngày mười hai tháng giêng, từ sông A-ha-va chúng tôi lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Thượng Đế gìn giữ chúng tôi khỏi tay kẻ thù rình rập dọc đường.
32Chúng tôi đến Giê-ru-sa-lem, ở đấy ba ngày. 33Qua ngày thứ tư, chúng tôi đem vàng, bạc và các dụng cụ vào Đền thờ, cân lại rồi giao cho Mê-rê-mốt (con thầy tế lễ U-ri). Bên cạnh ông có Ê-lê-a-sa (con Phi-nê-a) Giô-xa-báp (con Giê-sua) và Nô-a-đia (con Bin-mi) là những người Lê-vi. 34Mọi món đều được cân kỹ lưỡng và trọng lượng được ghi lại rõ ràng. 35Chúng tôi, những người lưu đày hồi hương, dâng lễ thiêu cho Thượng Đế Y-sơ-ra-ên, gồm có mười hai con bò (cho mười hai đại tộc Ysơ-ra-ên), chín mươi sáu cừu đực, bảy mươi bảy cừu con, và mười hai dê đực làm lễ vật chuộc tội. 36Chiếu chỉ của hoàng đế được trao cho các phó vương và các tổng trấn ở phía Tây sông Cái; và họ đã giúp đỡ dân Y-sơ-ra-ên lo công việc Đền thờ Thượng Đế.