32

Giê-rê-mi mua một đám ruộng

1Vào năm thứ mười triều vua Sê-đê-kia nước Giu-đa, tức là năm thứ mười tám triều vua Nê-bu-cát-nết-sa, có lời của Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi. 2Bấy giờ, quân đội của vua Ba-by-lôn bao vây thành Giê-ru-sa-lem, còn nhà tiên tri Giê-rê-mi đang bị giam trong sân vệ binh tại cung điện vua Giu-đa. 3Sê-đê-kia, vua Giu-đa, đã giam ông và nói: “Tại sao ngươi dám nói tiên tri là Đức Giê-hô-va phán: ‘Nầy, Ta sẽ phó thành nầy vào tay vua Ba-by-lôn và vua ấy sẽ chiếm thành; 4Sê-đê-kia, vua Giu-đa, sẽ không thoát khỏi tay người Canh-đê, nhưng sẽ bị nộp vào tay vua Ba-by-lôn. Sê-đê-kia sẽ thấy tận mắt và nói chuyện mặt đối mặt với vua ấy. 5Sê-đê-kia sẽ bị giải về Ba-by-lôn và ở đó cho đến khi Ta thăm viếng; dù các ngươi có kháng cự cũng sẽ không thắng nổi người Canh-đê.’ Đức Giê-hô-va phán vậy?”.
6Giê-rê-mi nói: “Có lời của Đức Giê-hô-va phán với tôi rằng: 7Nầy Ha-na-mê-ên, con trai chú Sa-lum của con, sẽ đến gặp con và nói: ‘Anh hãy mua đám ruộng của tôi tại A-na-tốt, vì anh có quyền chuộc để mua ruộng ấy.’ 8Ha-na-mê-ên, con trai chú tôi, vâng lời Đức Giê-hô-va đến gặp tôi trong sân vệ binh và nói: ‘Tôi xin anh mua lại đám ruộng của tôi ở A-na-tốt, trong đất Bên-gia-min, vì anh có quyền chuộc và sở hữu ruộng ấy; xin anh mua giùm đi.’ Bấy giờ, tôi nhận biết đó là lời của Đức Giê-hô-va.
9Vậy tôi mua ruộng ở A-na-tốt của Ha-na-mê-ên, con trai chú tôi, và tôi đã cân cho anh ta gần hai trăm gam bạc. 10Tôi viết tờ khế ước, niêm phong lại, mời người làm chứng rồi cân bạc trên cân. 11Tôi lấy khế ước bán, gồm có bản đã niêm phong với các điều khoản và quy định, và bản không niêm phong 12và trao cho Ba-rúc, con trai Nê-ri-gia, cháu Ma-a-xê-gia, trước mặt Ha-na-mê-ên, con trai chú tôi, và trước mặt những người làm chứng đã ký tên vào khế ước, cũng như trước mặt mọi người Giu-đa đang ngồi trong sân vệ binh. 13Trước mặt họ, tôi dặn Ba-rúc rằng: 14Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: ‘Hãy lấy các khế ước nầy, cả khế ước niêm phong lẫn khế ước không niêm phong, cất vào một chiếc bình gốm, để chúng được bảo quản lâu ngày.’ 15Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: ‘Người ta sẽ còn mua nhà cửa, ruộng đất, và vườn nho trong xứ nầy.’
16Sau khi trao khế ước cho Ba-rúc, con trai Nê-ri-gia, tôi cầu nguyện với Đức Giê-hô-va rằng: 17‘Lạy Chúa Giê-hô-va! Chính Ngài đã dùng quyền năng lớn lao và cánh tay quyền uy mà dựng nên trời và đất! Không có việc gì khó quá cho Ngài. 18Ngài bày tỏ lòng nhân ái đến nghìn đời, nhưng phạt tội cha ông đến đời con cháu. Ôi! Ngài là Đức Chúa Trời vĩ đại và quyền uy, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân!. 19Kế hoạch của Ngài thật lớn lao, công việc Ngài đầy quyền năng. Mắt Ngài soi thấu mọi đường lối của con cái loài người để ban thưởng cho mỗi người tùy theo đường lối và kết quả công việc họ làm. 20Ngài đã thực hiện các dấu kỳ phép lạ trong đất Ai Cập, và cho đến ngày nay Ngài vẫn tiếp tục trong Y-sơ-ra-ên cũng như trong mọi nơi khác; Ngài đã làm cho danh Ngài nổi tiếng như hiện nay. 21Ngài đã dùng những dấu kỳ phép lạ, đưa bàn tay mạnh mẽ và cánh tay dang ra, gây bao nỗi kinh hoàng mà đem dân Y-sơ-ra-ên của Ngài ra khỏi Ai Cập. 22Ngài ban cho chúng đất nầy, một miền đất đượm sữa và mật, mà Ngài đã thề ban cho tổ phụ của chúng. 23Chúng đã vào và nhận đất nầy làm sản nghiệp, nhưng không vâng theo tiếng Ngài, không sống theo luật pháp Ngài, không thực hành một điều nào trong mọi điều mà Ngài dặn bảo. Vì vậy, Ngài đã giáng mọi tai ương nầy trên chúng.
24Kìa, các ụ đã đắp sát thành để chiếm thành. Vì gươm đao, đói kém, dịch bệnh, nên thành bị rơi vào tay người Canh-đê đang tranh chiến với nó. Điều Ngài phán đã xảy ra, và chính Ngài thấy rõ! 25Lạy Chúa Giê-hô-va, Ngài đã phán với con: “Hãy lấy bạc mua thửa ruộng nầy, và mời người làm chứng.” Thế mà thành đã rơi vào tay người Canh-đê!’”
26Có lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi: 27“Nầy, Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của mọi loài xác thịt; có việc gì khó quá cho Ta chăng? 28Vì thế, Đức Giê-hô-va phán: Nầy, Ta sẽ phó thành nầy vào tay người Canh-đê, vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và vua ấy sẽ chiếm thành. 29Những người Canh-đê đang tấn công thành nầy sẽ đến phóng hỏa đốt thành, thiêu hủy các nhà mà người ta dâng hương cho Ba-anh trên mái và làm lễ quán cho các thần khác, để chọc giận Ta.
30Vì từ thuở niên thiếu, con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa chỉ biết làm điều gian ác dưới mắt Ta. Thật, con cái Y-sơ-ra-ên chỉ biết chọc giận Ta bằng những công việc tay chúng làm, Đức Giê-hô-va phán vậy. 31Từ ngày được xây lên cho đến ngày nay, thành nầy đã làm cho Ta bực tức và giận dữ. Ta muốn loại bỏ nó khỏi mặt Ta 32vì mọi điều ác mà con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa, chính chúng, vua chúa, các thủ lĩnh, các thầy tế lễ, các nhà tiên tri của chúng, cả người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem đã làm để chọc giận Ta, 33Chúng không quay mặt mà quay lưng lại với Ta. Dù Ta có thường xuyên khuyên dạy chúng, chúng vẫn không nghe, không tiếp nhận lời dạy dỗ. 34Chúng đã đặt những vật ghê tởm trong nhà được gọi bằng danh Ta, để làm cho ô uế. 35Chúng đã xây các nơi cao của Ba-anh trong thung lũng Ben Hi-nôm để dâng con trai con gái mình cho Mo-lóc. Đó là điều mà Ta không truyền dạy, cũng không nghĩ rằng chúng có thể làm điều ghê tởm như thế để gây cho Giu-đa phạm tội.
36Vì thế, bây giờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán về thành mà các ngươi nói rằng nó đã rơi vào tay vua Ba-by-lôn bởi gươm đao, đói kém, dịch bệnh, như sau: 37‘Nầy, Ta sẽ tập hợp chúng từ mọi nước mà Ta đã đuổi chúng đến trong cơn bực tức, giận dữ và thịnh nộ. Ta sẽ đem chúng trở về nơi nầy và cho chúng an cư lạc nghiệp. 38Chúng sẽ làm dân Ta, và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng. 39Ta sẽ ban cho chúng cùng một tấm lòng, cùng một đường lối để chúng kính sợ Ta trọn đời, nhờ đó chính chúng và dòng dõi con cháu chúng đều được phước. 40Ta sẽ lập với chúng một giao ước đời đời: Ta sẽ không lìa bỏ chúng và không ngừng ban phước cho chúng. Ta sẽ đặt sự kính sợ Ta vào lòng chúng để chúng không lìa bỏ Ta nữa. 41Ta sẽ lấy làm vui mà ban phước cho chúng, hết lòng hết sức mà trồng chúng bền vững trong đất nầy.’
42Đức Giê-hô-va phán: ‘Như Ta đã giáng mọi tai vạ khủng khiếp trên dân nầy, Ta cũng sẽ giáng trên chúng mọi phước lành mà Ta đã hứa với chúng. 43Người ta sẽ mua ruộng trong xứ nầy, xứ mà các con bảo: “Đó là nơi hoang vu, không có loài người, cũng không có loài thú, đã rơi vào tay người Canh-đê.” 44Người ta sẽ dùng bạc mua ruộng, lập khế ước bán, niêm phong lại, mời người làm chứng trong đất Bên-gia-min và vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem, trong các thành Giu-đa và trong các thành miền núi, vùng Sơ-phê-la và vùng Nê-ghép. Vì Ta sẽ đem chúng trở về từ cảnh lưu đày.’” Đức Giê-hô-va phán vậy.

32

Pô Pơala Yirmeyah Blơi Sa Boh Hơma

1Anai yơh jing boh hiăp Yahweh pơhiăp hăng kâo, Yirmeyah, amăng thŭn tal pluh rơnŭk Zidkiyah ngă pơtao anih lŏn Yudah, jing amăng thŭn tal pluh-sapăn Nebukhadnezzar jing pơtao prŏng yơh. 2Hlak anŭn, ƀing ling tơhan pơtao dêh čar Babilon hlak blah hruă plei Yerusalaim laih anŭn arăng mă krư̆ hĭ laih kâo amăng wăl tơdron ƀing gak amăng sang pơtao pơtao lŏn čar Yudah yơh.
3Zidkiyah pơtao lŏn čar Yudah hơmâo mă krư̆ hĭ kâo pơ anih anŭn hăng laĭ tui anai, “Yua hơget ih laĭ lui hlâo tui hăng tơlơi ih pơhaih anŭn lĕ? Ih laĭ tui anai, ‘Anai yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp: Kâo, Yahweh, jĕ či jao hĭ plei anai kơ pơtao dêh čar Babilon, laih anŭn pơtao anŭn či blah mă hĭ yơh. 4Zidkiyah pơtao lŏn čar Yudah ƀu či tơklaih hĭ mơ̆ng tơngan dưi kơtang ƀing Babilon ôh, samơ̆ Kâo či jao hĭ ñu kơ pơtao prŏng dêh čar Babilon laih anŭn Zidkiyah či pơhiăp hăng pơtao anŭn anăp klă̱ anăp laih anŭn ƀuh pơtao anŭn hăng mơta ñu pô yơh. 5Ñu či mă ba Zidkiyah pơ dêh čar Babilon laih anŭn gơ̆ či dŏ pơ anŭn tơl Kâo pơkơhma̱l hĭ gơ̆ yơh. Tơdah ƀing gih pơblah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing Babilon, ƀing gih ƀu či dưi hĭ ôh.’ ” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.
6Kâo, Yirmeyah, laĭ tui anai, “Yahweh pơhiăp hăng kâo tui anai: 7Hanamêl ană đah rơkơi Sallum, jing wa ih, či nao truh pơ ih hăng laĭ tui anai, ‘Blơi bĕ đang hơma kâo ƀơi plei Anathôt, yuakơ ih yơh jing adơi ai jĕ giăm biă mă laih anŭn ăt jing tơlơi dưi hăng bruă jao ih kiăng kơ blơi đang hơma anŭn mơ̆n.’
8“Giŏng anŭn, tui hăng Yahweh hơmâo pơhiăp laih, adơi ai kâo Hanamêl rai pơ kâo amăng wăl tơdron ƀing gak wai hăng laĭ tui anai, ‘Blơi bĕ đang hơma kâo ƀơi plei Anathôt amăng guai lŏn ƀing Benyamin. Blơi mă bĕ kơ ih pô yuakơ ih yơh hơmâo tơlơi dưi kiăng kơ song glaĭ hăng blơi mă anih anŭn.’
 “Tui anŭn, kâo thâo krăn kơ tơlơi anŭn jing boh hiăp Yahweh yơh.
9Giŏng anŭn, kâo blơi hĭ đang hơma ƀơi plei Anathôt mơ̆ng adơi ai kâo Hanamêl laih anŭn pơkơtraŏ brơi kơ ñu pluh-tơjuh sekel amrăk yơh. 10Kâo kač hăng kŭl kơđŏm hĭ gru ƀơi hră blơi anŭn hăng hlĭn yơh, hơmâo mơnuih gơ̆ng jơlan brơi laih anŭn pơkơtraŏ brơi prăk amrăk ƀơi gai kơnăng yơh. 11Arăng čih glaĭ hră blơi anŭn samơ̆ ƀu kơđŏm ôh. Amăng hră kơđŏm arăng hơmâo čih pioh laih hơdôm boh hiăp pơtŭ ư kơ tơlơi blơi anŭn. 12Kâo brơi abih dua hră anŭn kơ Baruk ană đah rơkơi Nêriyah, tơčô Mahsêyah, ƀơi anăp adơi ai kâo Hanamêl laih anŭn ƀing ngă gơ̆ng jơlan, jing ƀing hơmâo kač laih kơ tơlơi blơi lŏn anŭn, wơ̆t hăng abih bang ƀing Yudah dŏ be̱r amăng wăl tơdron ƀing gak wai anŭn mơ̆n.
13“Ƀơi anăp gơñu yơh kâo pơtă pơtăn kơ Baruk tui anai, 14‘Anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang, jing Ơi Adai ƀing Israel, pơhiăp: Mă bĕ hơdôm hră anai, jing hră kơđŏm hăng hră ƀu kơđŏm laih anŭn pioh bĕ amăng sa boh čeh lŏn kraĭ kiăng kơ hră anŭn dŏ kơjăp sui ƀiă, 15yuakơ anai yơh jing tơlơi Yahweh Dưi Kơtang, jing Ơi Adai ƀing Israel, pơhiăp: Khul sang, khul đang hơma laih anŭn khul đang boh kơƀâo arăng ăt či blơi mă dơ̆ng amăng anih lŏn anai.’
16“Tơdơi kơ kâo hơmâo jao brơi laih hơdôm hră blơi anŭn kơ Baruk ană đah rơkơi Nêriyah, kâo iâu laĭ kơ Yahweh tui anai:
17“Ơ Khua Yang Yahweh hơi, Ih hơmâo hrih pơjing laih adai laih anŭn lŏn tơnah hăng tơlơi mơyang prŏng Ih hăng hơpăl tơngan dưi kơtang Ih. Ƀu hơmâo bruă hơget ôh jing tơnap đơi kơ Ih. 18Ih pơrơđah tơlơi khăp kơ lu rơbâo čô mơnuih samơ̆ Ih ăt pơkơhma̱l hĭ ƀing ană bă yuakơ khul tơlơi soh ama gơñu yơh. Ơ Ơi Adai prŏng prin dưi mơyang hơi, anăn Ih jing Yahweh Dưi Kơtang yơh. 19Khul tơlơi kơñăm Ih jing yom prŏng laih anŭn khul bruă Ih jing dưi mơyang yơh. Mơta Ih ƀuh abih bang hơdră jơlan mơnuih mơnam. Ih pha brơi kơ rĭm čô tui hăng tơlơi hơdip hơdơ̆ng rĭm čô ngă lăp kơ tŭ yơh wơ̆t tơdah hiam ƀôdah sat. 20Đưm hlâo adih, Ih ngă khul tơlơi mơsêh mơyang hăng khul gru kơnăl amăng lŏn čar Êjip, laih anŭn Ih hơmâo ngă laih nanao hlŏng truh kơ hrơi anai, abih dua amăng ƀing Israel laih anŭn amăng abih bang djuai mơnuih. Tui anŭn, Ih jing hĭ hing ang mơ̆ng djŏp djang anih yơh. 21Ih hơmâo ba laih ƀing ană plei Ih ƀing Israel tơbiă mơ̆ng lŏn čar Êjip hăng khul gru kơnăl, hăng khul tơlơi mơsêh mơyang, hăng hơpăl tơngan kơtang yơr tơbiă laih anŭn hăng tơlơi pơhuĭ prŏng prin yơh. 22Ih pha brơi kơ ƀing gơñu anih lŏn anai, jing anih lŏn Ih hơmâo ƀuăn rơ̆ng laih kiăng brơi kơ ƀing ơi adon gơñu hlâo adih, jing anih lŏn hơmâo bă hăng gơnam hiam kar hăng ia tơsâo laih anŭn ia hơni yơh. 23Ƀing ană plei Israel rai hăng tŭ mă laih anih lŏn anai, samơ̆ ƀing gơñu ƀu tui gưt kơ Ih hăng ngă tui tơlơi juăt Ih ôh. Ƀing gơñu ƀu ngă tui tơlơi Ih pơđar kơ ƀing gơñu kiăng kơ ngă ôh. Tui anŭn yơh, Ih ba rai laih abih bang tơlơi truh sat anai ƀơi ƀing gơñu.
24“Lăng bĕ hiư̆m ƀing rŏh ayăt pơdơ̆ng đĭ laih khul bơnư̆ toa kiăng kơ blah hruă hĭ plei anai. Yuakơ tơlơi pơblah, tơlơi ư̆ rơpa laih anŭn tơlơi kli̱n khe̱ng yơh, plei anai Ih či jao hĭ amăng tơngan ƀing Babilon, jing ƀing kơsung blah plei anai. Hơget tơlơi Ih hơmâo laĭ laih sĭt hơmâo truh laih yơh tui hăng tơlơi Ih ƀuh pơ anai. 25Wơ̆t tơdah plei anai Ih či jao hĭ kơ ƀing Babilon, samơ̆ Ơ Khua Yang Yahweh ăh, Ih pơtă laih kơ kâo tui anai, ‘Blơi bĕ đang hơma anŭn hăng amrăk laih anŭn brơi bĕ kơ arăng ngă gơ̆ng jơlan brơi.’ ”
26Giŏng anŭn, boh hiăp Yahweh pơhiăp hăng kâo, Yirmeyah, tui anai, 27“Kâo jing Yahweh, Ơi Adai kơ abih bang mơnuih mơnam. Ƀu hơmâo tơlơi hơget ôh jing tơnap đơi kơ Kâo. 28Hơnŭn yơh, anai jing tơlơi Yahweh pơhiăp dơ̆ng: Kâo jĕ či jao hĭ plei Yerusalaim anai kơ Nebukhadnezzar pơtao lŏn čar Babilon laih anŭn kơ ling tơhan ñu. Sĭt ƀing gơñu či blah mă hĭ plei anai yơh. 29Giŏng anŭn, Ƀing Babilon anŭn či mŭt rai hăng čuh hĭ plei anai yơh. Ƀing gơñu či čuh pơrai hĭ plei anai hrŏm hăng khul sang gơñu kiăng čuih Kâo kiăng kơ hil nač hăng tơlơi bruă ƀing gơñu čuh pơyơr gơnam ƀâo mơngưi kơ yang rơba̱ng Baal ƀơi khul bơbŭng sang tơhnă̱, laih anŭn hăng tơlơi bruă ƀing gơñu pơyơr tuh gơnam pơyơr mơñum gơñu kơ ƀing yang rơba̱ng pơkŏn yơh.
30“Ƀing lŏn čar Israel hăng lŏn čar Yudah ƀu hơmâo ngă tơlơi hiam hơget ôh, samơ̆ kơnơ̆ng ngă tơlơi sat ƀai ƀơi anăp Kâo čơdơ̆ng mơ̆ng đưm hlâo adih tơdang ƀing gơñu dŏ kar hăng hlak ai yơh. Sĭt yơh, ƀing ană plei Israel hơmâo ngă laih kơnơ̆ng hơdôm tơlơi sat ƀai kiăng čuih Kâo hil hăng bruă tơngan gơñu hơmâo pơkra laih.” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih. 31“Mơ̆ng hrơi mông arăng hơmâo pơdơ̆ng đĭ plei anŭn hlŏng truh pơ tă anai, mơnuih plei anŭn hơmâo ngă laih kơ Kâo kiăng kơ hil nač biă mă tơl Kâo khŏm mă pơrai hĭ plei anŭn hlo̱m ƀo̱m yơh. 32Ƀing ană plei Israel hăng Yudah hơmâo čuih laih Kâo kiăng kơ hil hăng abih bang tơlơi sat ƀai ƀing gơñu hơmâo ngă laih. Anŭn jing ƀing gơñu, ƀing pơtao hăng ƀing khua moa gơñu, ƀing khua ngă yang hăng ƀing pô pơala wơ̆t hăng ƀing mơnuih Yudah laih anŭn ƀing plei Yerusalaim yơh. 33Ƀing gơñu wĕh hĭ rŏng gơñu kơ Kâo pơala kơ djơ̆ ƀô̆ mơta gơñu. Wơ̆t tơdah Kâo pơtô kơ ƀing gơñu nanao, samơ̆ ƀing gơñu ƀu kiăng hơmư̆ ƀôdah tŭ mă tơlơi pơkhư̆ pơkra ôh. 34Ƀing gơñu pơdơ̆ng đĭ laih khul rup trah hơƀak drak gơñu amăng sang pioh kơkuh pơpŭ kơ Anăn Kâo, laih anŭn pơgrĭ hĭ laih sang anŭn. 35Ƀing gơñu pơkra khul anih pioh kơ kơkuh pơpŭ kơ yang rơba̱ng Baal amăng dơnung Ben-Hinnôm kiăng kơ čuh pơyơr ƀing ană đah rơkơi đah kơmơi gơñu yơh kơ yang Môlek. Tơlơi bruă anŭn Kâo ƀu pơđar kơ ƀing gơñu ôh. Kơđai glaĭ, tơlơi pơmĭn anŭn ƀu mŭt amăng jua pơmĭn Kâo ôh. Sĭt Kâo ƀu pơđar ôh kơ tơlơi ƀing gơñu khŏm ngă tơlơi hơƀak drak kar hăng anŭn laih anŭn ngă brơi kơ ƀing Yudah ngă soh hĭ.”
36Yahweh pơhiăp dơ̆ng tui anai, “Ih pơhiăp tơlơi sĭt kơ tơlơi plei Yerusalaim tui anai, ‘Hăng tơlơi pơblah, tơlơi ư̆ rơpa laih anŭn tơlơi kli̱n khe̱ng Yahweh či jao hĭ plei anŭn kơ pơtao lŏn čar Babilon.’ Samơ̆ anai yơh jing tơlơi Kâo, Yahweh, Ơi Adai ƀing Israel, pơhiăp thim dơ̆ng: 37Sĭt Kâo či pơƀut glaĭ ƀing gơñu mơ̆ng abih bang lŏn čar jing anih Kâo hơmâo puh pơđuaĭ hĭ laih ƀing gơñu yuakơ tơlơi Kâo hil nač ƀrŭk ƀrăk kơtang biă mă. Kâo či ba glaĭ ƀing gơñu pơ anih anai laih anŭn brơi kơ ƀing gơñu hơdip rơnŭk rơnua yơh. 38Ƀing gơñu či jing ƀing ană plei Kâo laih anŭn Kâo či jing Ơi Adai gơñu yơh. 39Kâo či pha brơi kơ ƀing gơñu ha sa pran jua hăng tơlơi kơñăm yơh, kiăng kơ ƀing gơñu či nanao huĭ pơpŭ kơ Kâo laih anŭn tơlơi hơdip gơñu pô hăng tơlơi hơdip ƀing ană tơčô gơñu amăng khul rơnŭk tơdơi či jing hiam klă yơh. 40Kâo či pơjing sa tơlơi pơgop pơlir hlŏng lar hăng ƀing gơñu tui anai: Kâo ƀu či pơdơi ngă tơlơi hiam klă kơ ƀing gơñu ôh laih anŭn Kâo či pơtrŭt pơđu̱r ƀing gơñu thâo huĭ pơpŭ kơ Kâo, kiăng kơ ƀing gơñu ƀu či wĕh đuaĭ hĭ ôh mơ̆ng Kâo. 41Kâo či hơ̆k mơak yơh kiăng kơ ngă hiam kơ ƀing gơñu. Hăng abih jua bơngăt Kâo yơh, Kâo či pla ƀing gơñu amăng anih lŏn anai kiăng kơ ƀing gơñu čăt đĭ kơjăp rơjăng yơh.
42“Anai yơh jing tơlơi Kâo, Yahweh, pơhiăp: Tui hăng tơlơi Kâo hơmâo brơi rai laih abih bang tơlơi truh sat prŏng prin anai ƀơi ƀing ană plei anai, ăt tui anŭn mơ̆n Kâo či pha brơi kơ ƀing gơñu abih bang tơlơi đĭ kơyar Kâo hơmâo ƀuăn brơi laih kơ ƀing gơñu. 43Ƀing gih laĭ kơ tơlơi anih lŏn anai jing sa anih rơngol, ƀu hơmâo mơnuih dŏ kŏn hơmâo hlô mơnơ̆ng lơi, yuakơ kơ ƀing Babilon mă pơrai hĭ hlo̱m ƀo̱m laih. Samơ̆ Kâo laĭ kơ tơlơi arăng či blơi dơ̆ng khul đang hơma amăng anih lŏn anai. 44Khul đang hơma anŭn arăng či blơi hăng amrăk, kač hăng kơđŏm khul hră blơi laih anŭn hơmâo mơnuih gơ̆ng jơlan brơi amăng guai lŏn ƀing Benyamin, amăng khul plei pla jum dar plei Yerusalaim, amăng khul plei pla amăng anih lŏn Yudah laih anŭn amăng khul plei pla anih bŏl čư̆, gah bŏl čư̆ gah yŭ̱ laih anŭn anih tring Negewơ gah thu̱ng, yuakơ Kâo či ba rai ƀing ană plei Kâo mơ̆ng anih ƀing gơñu dŏ gah yŭ tơlơi dưi pơtao prŏng yơh.” Anŭn yơh jing tơlơi Yahweh pơhiăp pơhaih laih.