21

Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem
như một Hoàng Đế

1Khi Chúa Giê-xu và các môn đệ đi gần đến thành Giê-ru-sa-lem, thì dừng chân lại tại thị trấn Bết-phát, dưới chân núi Ô-liu. Từ đó Ngài sai hai môn đệ đi 2và dặn, “Hãy đi đến thị trấn ngay trước mặt. Khi vào thành các con sẽ thấy một con lừa mẹ đang cột với con lừa con. Tháo ra dắt hai con lừa về cho ta. 3Nếu ai hỏi tại sao dắt lừa đi thì bảo là Thầy cần chúng nó và Ngài sẽ trả lại ngay.”
4Như vậy để hoàn thành lời nhà tiên tri đã nói:
  5“Hãy bảo cho dân cư Giê-ru-sa-lem biết,
   ‘Vua ngươi đến với ngươi.
  Ngài hiền hòa cỡi lừa,
   trên lưng lừa con, là con của lừa mẹ.’” Xa-cha-ri 9:9
6Các môn đệ đi và làm theo y như điều Chúa Giê-xu căn dặn. 7Họ mang lừa mẹ và lừa con về cho Ngài, trải áo mình lên lưng lừa rồi Ngài cỡi lên. 8Nhiều người trải áo mình trên đường. Kẻ khác chặt nhánh cây trải trên mặt đường. 9Người trước kẻ sau hô lên,
  “Hoan hô con vua Đa-vít.
  Thượng Đế ban phúc cho Đấng
   đến trong danh Ngài! Thi thiên 118:26
  Ca ngợi Thượng Đế trên trời!”
10Khi Chúa Giê-xu vào đến Giê-ru-sa-lem, cả thành hân hoan. Dân chúng hỏi nhau, “Người nầy là ai?”
11Quần chúng đáp, “Người nầy là Giê-xu, nhà tiên tri từ Na-xa-rét, miền Ga-li-lê.”

Chúa Giê-xu đi vào đền thờ

12Chúa Giê-xu đi vào đền thờ và đuổi tất cả những người đang buôn bán ở đó. Ngài lật đổ bàn của những kẻ đổi bạc, hất ghế của những người bán bồ câu. 13Ngài bảo mọi người nơi đó, “Thánh Kinh viết, ‘Đền thờ ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện.’ Nhưng các ngươi đã biến nó thành ‘sào huyệt lũ cướp.’
14Những người mù lòa và què quặt đến với Chúa Giê-xu trong đền thờ, Ngài chữa lành họ. 15Các giới trưởng tế và các giáo sư luật thấy Chúa Giê-xu làm những việc kỳ diệu và con trẻ ca ngợi Ngài trong đền thờ, “Hoan hô Con vua Đa-vít” thì họ tức giận.
16Họ hỏi Ngài, “Thầy có nghe mấy đứa trẻ nầy nói gì không?”
 Chúa Giê-xu đáp, “Có. Vậy là các ông chưa đọc trong Thánh Kinh có viết, ‘Ngài dạy các con trẻ và hài nhi ca ngợi’ hay sao?”
17Rồi Chúa Giê-xu rời họ và ra khỏi thành đến nghỉ đêm ở thị trấn Bê-tha-ni.

Quyền năng của đức tin

18Sáng sớm hôm sau, khi trở vào thành thì Ngài đói. 19Thấy có cây vả bên đường, Ngài bước lại gần xem nhưng không thấy trái nào, chỉ có lá thôi. Chúa Giê-xu bảo cây vả, “Mầy sẽ không bao giờ ra trái nữa.” Cây vả liền chết khô.
20Các môn đệ thấy vậy vô cùng sửng sốt. Họ hỏi, “Tại sao cây vả chết khô nhanh như vậy?”
21Chúa Giê-xu đáp, “Ta bảo thật, nếu các con có đức tin, không hoài nghi gì, thì các con có thể làm giống như ta đã làm cho cây nầy, hoặc hơn nữa. Các con có thể bảo hòn núi nầy rằng, ‘Hãy bứng lên và nhào xuống biển đi.’ Nếu các con có đức tin thì việc ấy sẽ xảy ra. 22Nếu các con tin thì cầu xin điều gì cũng được cả.”

Các nhà cầm quyền nghi ngờ
quyền năng của Chúa Giê-xu

23Chúa Giê-xu đi vào đền thờ. Trong khi đang dạy dỗ thì các giới trưởng tế và các bô lão đến gặp Ngài. Họ hỏi, “Thầy lấy quyền nào mà làm những việc nầy? Ai cho thầy quyền ấy?”
24Chúa Giê-xu đáp, “Tôi cũng hỏi các ông một câu. Các ông trả lời tôi thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm những việc nầy. 25Các ông hãy cho tôi biết: Khi Giăng làm báp-têm cho dân chúng thì lễ ấy đến từ Thượng Đế hay từ người ta?”
 Họ bàn luận về câu hỏi Ngài như thế nầy, “Nếu chúng ta nói, ‘Lễ báp-têm của Giăng từ Thượng Đế đến,’ thì ông ta sẽ hỏi, ‘Tại sao các ông không tin ông ấy?’
26Còn nếu chúng ta nói, ‘Lễ ấy đến từ người ta’ chúng ta sẽ bị quần chúng phản đối vì ai cũng tin Giăng là nhà tiên tri.”
27Cho nên họ trả lời, “Chúng tôi không biết.”
 Chúa Giê-xu bảo họ, “Vậy tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm những việc nầy.”

Ngụ ngôn về hai con trai

28“Các ngươi nghĩ sao về ngụ ngôn sau đây: Người kia có hai con trai. Ông đến bảo đứa đầu tiên, ‘Con ơi, hôm nay con hãy ra làm vườn nho của cha.’
29Đứa con đáp, ‘Con không đi đâu.’ Nhưng sau đó nó đổi ý và đi làm.
30Rồi ông đến nói với đứa thứ hai, ‘Con ơi, hôm nay con hãy ra làm vườn nho của cha.’ Đứa con thưa, ‘Dạ, con sẽ đi,’ nhưng rồi không đi.
31Trong hai đứa, đứa nào vâng lời cha?”
 Các giới trưởng tế và các nhà lãnh đạo trả lời, “Đứa đầu tiên.”
 Chúa Giê-xu bảo họ, “Ta bảo thật, kẻ thu thuế và phường đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông.
32Giăng đã đến chỉ cho các ông biết đường ngay để sống. Các ông không tin ông ấy nhưng những kẻ thu thuế và đĩ điếm tin ông ta. Và sau nầy các ông thấy vậy cũng không thèm ăn năn và tin ông ấy.”

Câu chuyện về Con Thượng Đế

33“Hãy nghe chuyện sau đây: Người chủ đất kia trồng một vườn nho. Ông xây tường xung quanh, đào một lỗ để đặt máy ép rượu và xây một cái tháp canh. Sau khi cho một số tá điền thuê thì ông liền lên đường đi xa. 34Đến mùa hái nho, ông sai các đầy tớ đến để thu phần hoa lợi của mình.
35Nhưng bọn tá điền bắt các đầy tớ, đánh đứa nầy, giết đứa nọ, còn đứa thứ ba bị chúng ném đá chết. 36Ông chủ lại sai toán đầy tớ khác đến, đông hơn trước. Nhưng bọn tá điền cũng đối xử y như thế. 37Vì vậy ông chủ vườn nho quyết định sai đứa con trai đến với bọn tá điền vì ông nghĩ bụng, ‘Chúng nó sẽ nể con ta.’
38Nhưng khi bọn tá điền thấy đứa con liền bảo nhau, ‘Thằng nầy sẽ thừa hưởng vườn nho. Nếu chúng ta giết nó thì vườn nho sẽ thuộc về chúng ta.’ 39Cho nên bọn tá điền bắt đứa con, tống ra khỏi vườn rồi giết chết.
40Như thế ông chủ vườn nho sẽ đối xử với bọn tá điền ấy ra sao?”
41Các giới trưởng tế và các nhà lãnh đạo trả lời, “Chắc chắn ông ta sẽ giết hết bọn tá điền gian ác ấy rồi cho nhóm tá điền khác thuê, là những người đến mùa sẽ trả phần hoa lợi cho ông ta đàng hoàng.”
42Chúa Giê-xu bảo họ, “Chắc hẳn các ông đã đọc lời Thánh Kinh nầy:
  ‘Tảng đá bị thợ xây nhà loại ra
   trở thành đá góc nhà.
  Thượng Đế đã làm điều ấy,
   quả thật kỳ diệu đối với chúng ta.’ Thi thiên 118:22–23
43Cho nên ta bảo các ông rằng Nước Trời sẽ được lấy khỏi các ông và cấp cho người xứng vào nước Ngài. 44Ai rơi trên tảng đá đó sẽ bị dập nát, còn người nào bị tảng đá ấy rớt trúng sẽ bị tan xác.”
45Khi các giới trưởng tế và các người Pha-ri-xi nghe những ngụ ngôn ấy thì hiểu ngay là Chúa Giê-xu nói về họ. 46Họ muốn bắt Ngài nhưng sợ dân chúng, vì ai nấy đều tin rằng Chúa Giê-xu là nhà tiên tri.

21

Yêsu Mŭt Pơ Plei Yerusalaim Hăng Tơlơi Mơak Mơai

(Markôs 11:1-11; Luk 19:28-40; Yôhan 12:12-19)

1Tơdang ƀing gơñu anăp nao pơ plei prŏng Yerusalaim, ƀing gơñu nao truh pơ plei Bêtphagê jĕ pơ bŏl čư̆ Ôliwơ. Giŏng anŭn, Yêsu pơkiaŏ dua čô ƀing ding kơna Ñu nao hlâo, 2laih anŭn pơtă kơ ƀing gơñu tui anai, “Nao bĕ pơ plei gah anăp kơ ƀing gih anŭn! Tơdang ƀing gih mŭt amăng plei anŭn, ƀing gih či ƀuh mơtam sa drơi aseh glai ania arăng akă wơ̆t hăng ană aseh anŭn mơ̆n. Tơlĕh hĭ bĕ dua drơi aseh anŭn laih anŭn ba rai pơ Kâo anai! 3Tơdah hơmâo hlơi pô tơña yua hơget ƀing gih ngă tui anŭn, brơi kơ ƀing gih laĭ glaĭ bĕ kơ pô anŭn tui anai, ‘Khua ta, jing Pô arăng iâu Khua Yang yơh, kiăng kơ yua dua drơi aseh anai.’ Tui anŭn, arăng či brơi kơ ƀing gih dui ba mơtam yơh.”
4Abih bang tơlơi anŭn truh kiăng kơ krep djơ̆ tui hăng tơlơi Khua Yang hơmâo pơhiăp laih mơ̆ng pô pơala tui anai,
  5“Laĭ brơi bĕ kơ ƀing ană plei plei Ziôn thâo,
   anai nê, pơtao ih rai pơ ih,
   Ñu luă gŭ laih anŭn đĭ ƀơi sa drơi aseh glai,
   anŭn jing ƀơi ană aseh glai yơh.”
6Giŏng anŭn, dua čô ding kơna Ñu anŭn nao laih anŭn ngă tui hăng tơlơi Yêsu hơmâo pơtă laih kơ ƀing gơñu. 7Ƀing gơñu ba rai aseh glai ania anŭn wơ̆t hăng ană aseh anŭn mơ̆n laih anŭn tap ao gơñu ƀơi rŏng aseh anŭn, laih anŭn Yêsu đĭ dŏ ƀơi ngŏ ao anŭn. 8Hơmâo lu mơnuih tap ao gơñu ƀơi jơlan laih anŭn ƀing pơkŏn dơ̆ng kŏh lu than kơyâo rap ƀơi jơlan. 9Hơmâo đơđa ƀing mơnuih lu nao hlâo laih anŭn đơđa nao tơdơi kơ Yêsu laih anŭn ƀing gơñu čơdơ̆ng pơhiăp kraih tui anai,
  “Hôsanna kơ Ană Tơčô pơtao Dawid!
   Bơni hiam yơh kơ Pô rai amăng anăn Khua Yang!
   Hôsanna kơ Ơi Adai!”
10Tơdang Yêsu mŭt amăng plei Yerusalaim, abih bang ƀing ană plei le̱ng kơ pơđĭ pran jua biă mă. Hơmâo đơđa mơnuih tơña, “Hlơi Pô anŭn lĕ?”
11Ƀing mơnuih lu rai hăng Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Anŭn jing Yêsu, pô pơala rai mơ̆ng plei Nazaret amăng kwar Galilê!”

Yêsu Puh Pơđuaĭ Hĭ Ƀing Sĭ Mơnia Wơ̆t Hăng Ƀing Blơi Mơ̆ng Sang Yang Ơi Adai

(Markôs 11:15-19; Luk 19:45-48; Yôhan 2:13-22)

12Yêsu mŭt nao amăng anih wăl tơdron Sang Yang laih anŭn puh pơđuaĭ hĭ abih bang ƀing sĭ mơnia wơ̆t hăng ƀing blơi amăng anih anŭn. Ñu tơlư̆ pơkŭp kơƀa̱ng ƀing mơnuih pơplih prăk wơ̆t hăng grê ƀing mơnuih dŏ sĭ čim pơrơgŏm mơ̆n. 13Laih anŭn Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu, “Hră Ơi Adai hơmâo čih laih tui anai, ‘Sang Kâo arăng či iâu jing sang Iâu Laĭ,’ samơ̆ ƀing gih pơjing hĭ Sang Kâo jing hrup hăng ‘pa̱r ƀing klĕ dŏp.’ ”
14Hơmâo ƀing mơnuih bum mơta hăng ƀing mơnuih jo tơkai nao pơ Yêsu amăng Sang Yang, laih anŭn Ñu pơsuaih hĭ ƀing gơ̆. 15Samơ̆ ƀing khua ngă yang prŏng hăng ƀing nai pơtô Tơlơi Juăt hil kơ Yêsu yơh tơdang ƀing gơñu ƀuh tơlơi mơsêh mơyang Yêsu hơmâo ngă laih. Ƀing gơñu ăt hil mơ̆n tơdang ƀing gơñu hơmư̆ ƀing čơđai pơhiăp kraih amăng Sang Yang tui anai, “Bơni hiam yơh kơ Ană Tơčô pơtao Dawid.” 16Tui anŭn, ƀing gơñu tơña kơ Yêsu tui anai, “Ih hơmư̆ mơ̆ tơlơi ƀing čơđai anŭn laĭ?”
 Yêsu laĭ glaĭ, “Sĭt, Kâo hơmư̆ yơh. Sĭt ƀing gih ăt đŏk laih mơ̆n tơlơi anai,
  “ ‘Ơ Khua Yang ăh, Ih hơmâo pơhrăm laih ƀing čơđai hăng ƀing ană nge kiăng kơ bơni hơơč hlo̱m ƀo̱m.’ ”
17Giŏng anŭn, Yêsu đuaĭ hĭ mơ̆ng ƀing gơñu laih anŭn tơbiă nao pơ plei Bêthania. Ñu đŏm glaĭ pơ anŭn sa mlam.

Yêsu Hơtŏm Păh Kơyâo Hra

(Markôs 11:12-14, 20-24)

18Ƀơi mơguah hrơi tŏ tui, tơdang Yêsu hlak wơ̆t glaĭ pơ plei Yerusalaim, Ñu rơpa yơh. 19Tơdang Ñu ƀuh sa ƀĕ kơyâo hra ƀơi akiăng jơlan, Ñu nao jĕ kiăng kơ hơduah boh čroh samơ̆ ƀu hơduah ƀuh ôh samơ̆ kơnơ̆ng ƀuh hla đôč. Giŏng anŭn, Ñu laĭ kơ kơyâo hra anŭn tui anai, “Ŏng ƀu či pơtơbiă rai boh čroh dơ̆ng tah!” Ƀơi mông anŭn mơtam, kơyâo hra anŭn gliu hĭ yơh.
20Tơdang ƀing ding kơna Ñu ƀuh tơlơi anŭn, ƀing gơñu kơtuă hli̱ng hla̱ng biă mă. Ƀing gơñu tơña tui anai, “Hiư̆m pă kơyâo hra gliu hĭ tañ biă mă lĕ?”
21Yêsu laĭ glaĭ, “Kâo laĭ hăng ƀing gih sĭt biă mă, tơdah ƀing gih đaŏ laih anŭn ƀu đing đaŏ hơget gĕt ôh, ƀing gih či dưi ngă yơh kar hăng tơlơi Kâo hơmâo ngă laih kơ kơyâo hra anŭn. Laih anŭn dơ̆ng, ƀu djơ̆ kơnơ̆ng dưi ngă tui anŭn đôč ôh, samơ̆ ƀing gih ăt dưi pơđar kơ bŏl čư̆ anai, ‘Tơgŭ bĕ laih anŭn plĕ bĕ ŏng pô amăng ia rơsĭ.’ Laih anŭn bŏl čư̆ anŭn či ngă tui tơlơi ƀing gih pơđar yơh. 22Tơdah ƀing gih đaŏ, Ơi Adai či brơi kơ ƀing gih mă tŭ yơh hơget tơlơi ƀing gih rơkâo tơdang ƀing gih iâu laĭ.”

Ƀing Khua Djă̱ Akŏ Yehudah Tơña Kơ Tơlơi Dưi Yêsu

(Markôs 11:27-33; Luk 20:1-8)

23Tơdơi kơ Yêsu wơ̆t glaĭ pơ anih wăl tơdron Sang Yang laih anŭn Ñu hlak dŏ pơtô laĭ, ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing kŏng tha Yehudah rai tơña kơ Ñu tui anai, “Mơ̆ng pă Ih dưi ngă hơdôm tơlơi bruă anŭn lĕ? Hlơi pô brơi laih kơ Ih tơlơi dưi anŭn lĕ?”
24Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo ăt či tơña kơ ƀing gih sa tơlơi mơ̆n; tơdah ƀing gih laĭ glaĭ kơ Kâo, Kâo či laĭ brơi kơ ƀing gih yơh mơ̆ng tơlơi dưi pă Kâo hlak dŏ ngă kơ tơlơi bruă anai. 25Tơlơi baptem Yôhan ngă anŭn tơbiă rai mơ̆ng pă lĕ? Mơ̆ng Ơi Adai ƀôdah mơ̆ng mơnuih?”
 Ƀing gơñu čơdơ̆ng pơrơklah hăng tơdruă gơñu tui anai, “Tơdah ƀing ta laĭ, ‘Mơ̆ng Ơi Adai,’ Ñu či laĭ kơ ƀing ta, ‘Tui anŭn, yua hơget ƀing gih ƀu đaŏ kơ Yôhan ôh lĕ?’
26Samơ̆ tơdah ƀing ta laĭ, ‘Mơ̆ng mơnuih,’ ƀing ta huĭ kơ ană plei ta yơh yuakơ ƀing gơñu le̱ng kơ yap Yôhan jing sa čô pô pơala.”
27Tui anŭn, ƀing gơñu laĭ glaĭ kơ Yêsu tui anai, “Ƀing gơmơi ƀu thâo ôh.”
 Yêsu laĭ glaĭ tui anai, “Kâo ăt ƀu či laĭ brơi kơ ƀing gih thâo lơi, mơ̆ng pă Kâo dưi ngă kơ hơdôm tơlơi bruă anŭn.”

Pơhơmutu Kơ Dua Čô Ană Đah Rơkơi

28Yêsu pơtô dơ̆ng hăng ƀing khua anŭn tui anai, “Hơget ƀing gih pơmĭn kơ tơlơi anai lĕ? Hơmâo sa čô mơnuih hơmâo dua čô ană đah rơkơi. Ñu nao laĭ kơ ană kơčoa ñu tui anai, ‘Ơ dăm, hrơi anai ih nao mă bruă bĕ pơ đang boh kơƀâo hŏ.’
29“Ană Kơčoa ñu anŭn hơngah tui anai, ‘Ơ ơh, kâo ƀu kiăng nao ôh.’ Samơ̆ tơdơi kơ anŭn, ñu pơplih jua pơmĭn ñu laih anŭn nao mă bruă.
30“Giŏng anŭn, pô ama nao laĭ kơ ană tơluč ñu kar hăng ñu pơhiăp laih hăng ană kơčoa ñu mơ̆n. Ană tơluč ñu tŭ ư tui anai, ‘Ơ, kâo či nao yơh.’ Samơ̆ tơdơi kơ anŭn, ñu ƀu nao ôh.
31“Amăng dua čô ană anŭn, pô pă ngă tui tơlơi kiăng ama gơñu lĕ?”
 Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Pô ană kơčoa yơh.”
 Yêsu laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Kâo laĭ hăng ƀing gih sĭt biă mă, ƀing mơnuih ring jia sat ƀai laih anŭn ƀing đah kơmơi rĭh răm yơh či dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai pơala kơ ƀing gih.
32Kâo laĭ tui anŭn yuakơ Yôhan pô ngă baptem rai pơtô laih kơ ƀing gih jơlan tơpă hơnơ̆ng samơ̆ ƀing gih ƀu đaŏ ôh kơ tơlơi ñu pơtô. Kơđai glaĭ, ƀing ring jia sat ƀai laih anŭn ƀing đah kơmơi rĭh răm anŭn đaŏ kơ tơlơi anŭn. Laih anŭn dơ̆ng, wơ̆t tơdah ƀing gih ƀuh laih kơ tơlơi ƀing gơ̆ đaŏ anŭn, samơ̆ ƀing gih ăt dŏ hơngah mơ̆n ƀu kiăng pơplih hĭ ôh jua pơmĭn gih kiăng kơ đaŏ kơ tơlơi Yôhan pơtô.”

Pơhơmutu Kơ Ƀing Wai Đang Boh Kơƀâo Sat Ƀai

(Markôs 12:1-12; Luk 20:9-19)

33Yêsu pơtô dơ̆ng kơ ƀing gơñu tui anai, “Hơmư̆ bĕ kơ tơlơi pơhơmutu anai dơ̆ng: Hơmâo sa čô mơnuih pla đang boh kơƀâo prŏng. Ñu pơdơ̆ng bơnư̆ pơga jum dar, pơkra sa boh anih djet boh kơƀâo laih anŭn pơdơ̆ng đĭ sa boh sang nưh kiăng kơ gak wai. Giŏng anŭn, ñu jao đang anŭn kơ ƀing arăng kiăng kơ răk wai laih anŭn pơpha boh čroh hăng ñu, samơ̆ ñu pô nao pơ anih lŏn pơkŏn sui ƀiă. 34Tơl truh bơyan pĕ boh, ñu pơkiaŏ ƀing ding kơna ñu nao pơ ƀing răk wai đang anŭn kiăng kơ mă brơi boh čroh pơpha mơ̆ng đang anŭn.
35“Ƀing wai đang anŭn mă hĭ ƀing gơ̆, taih hĭ pô anai, pơdjai hĭ pô adih laih anŭn glŏm hĭ boh pơtâo kơ pô anŭn. 36Giŏng anŭn, pô đang anŭn pơkiaŏ ƀing ding kơna ñu pơkŏn dơ̆ng lu hloh kơ hlâo nao pơ ƀing wai đang anŭn, laih anŭn ƀing wai đang anŭn ăt ngă sat kơ ƀing gơ̆ kar kaĭ mơ̆n. 37Hơnăl tuč, ñu pơkiaŏ nao ană đah rơkơi ñu pô pơ ƀing wai đang anŭn yuakơ ñu pơmĭn, ‘Ƀing gơñu či pơpŭ kơ ană kâo pô yơh.’
38“Samơ̆ tơdang ƀing răk wai đang anŭn ƀuh ană pô đang anŭn, ƀing gơñu pơlaĭ kơ tơdruă, ‘Anŭn yơh jing pô či tŭ mă kŏng ngăn ama ñu. Nă, brơi kơ ƀing ta pơdjai hĭ bĕ ñu laih anŭn mă hĭ kŏng ngăn mơ̆ng ñu.’ 39Tui anŭn, ƀing gơñu mă gơ̆, glŏm pơ gah rơngiao đang laih anŭn pơdjai hĭ gơ̆.”
40Giŏng anŭn, Yêsu tơña kơ ƀing khua anŭn tui anai, “Hơnŭn yơh, tơdang pô đang boh kơƀâo anŭn rai, hơget tơlơi ñu či ngă kơ ƀing răk wai đang anŭn lĕ?”
41Ƀing gơñu laĭ glaĭ, “Sĭt pô đang anŭn či pơdjai hĭ ƀing sat ƀai anŭn laih anŭn jao brơi đang boh kơƀâo anŭn kơ ƀing răk wai pơkŏn yơh, jing ƀing či pơpha brơi kơ ñu boh čroh amăng bơyan pĕ hơpuă.”
42Yêsu laĭ kơ ƀing gơñu tui anai, “Sĭt ƀing gih ăt đŏk laih mơ̆n tơlơi anai amăng Hơdrôm Hră Rơgoh Hiam,
  “ ‘Boh pơtâo ƀing pơdơ̆ng sang hơngah lui ƀu tŭ yua,
   hơmâo jing hĭ laih boh pơtâo phŭn kơ abih bang.
  Khua Yang yơh jing Pô hơmâo ngă laih tơlơi anŭn,
   laih anŭn jing yom pơphan biă mă kơ ƀing ta lăng.’
43“Tui anŭn, Kâo laĭ kơ ƀing gih, Ơi Adai či mă pơđuaĭ hĭ tơlơi dưi jing ană plei Dêh Čar Ơi Adai mơ̆ng ƀing gih laih anŭn jao brơi kơ ƀing kơnung djuai pơkŏn, jing ƀing pơtơbiă rai boh čroh djơ̆ hơnơ̆ng. 44Hlơi pô lê̆ ƀơi boh pơtâo anŭn, ñu anŭn či pơčah brai hĭ yơh; samơ̆ ƀơi hlơi pô boh pơtâo anŭn lê̆ djơ̆, boh pơtâo anŭn či pơsăn hĭ ñu anŭn yơh.”
45Tơdang ƀing khua ngă yang prŏng laih anŭn ƀing Pharisai anŭn hơmư̆ kơ tơlơi pơhơmutu anŭn, ƀing gơñu thâo krăn Yêsu pơtô kơčrâo kơ ƀing gơñu. 46Tui anŭn, ƀing gơñu kiăng mă Yêsu yơh, samơ̆ ƀing gơñu huĭ kơ ƀing ană plei yuakơ ƀing ană plei yap kơ Yêsu jing pô pơala.