9

1Gâp mâu dơi jêng kon me hĕ? Gâp mâu dơi jêng kôranh oh mon hĕ? Gâp mâu mâp saơ Brah Yêsu, Kôranh Brah he hĕ? Mâm khân may mâu jêng kan gâp tâm Kôranh Brah? 2Tơlah ma phung êng, gâp mâu jêng kôranh oh mon, nanê̆ gâp jêng kôranh oh mon ma khân may yơh; yorlah khân may jêng ndơ tâp pŏng kan gâp tâm Kôranh Brah. 3Pôri nau gâp king ma phung phong gâp. 4Hên mâu geh nau vay sa mâu lah nhêt hĕ? 5Hên mâu geh nau vay njŭn leo ndrel ma hên du huê bu ur chroh jêng ur hên, tâm ban ma phung kôranh oh mon êng jêh ri phung oh Kôranh Brah, nđâp ma Y-Sêphas? 6Mâu lah knŏng du huê gâp mâu lah Y-Ƀarnaƀas hĕ mâu geh nau vay lơi kan hên pah? 7Mbu nơm hăn jêng tahan dâk mpŭng prăk păng nơm? Mbu nơm tăm tơm play kriăk ƀâu jêh ri mâu sa play păng? Mbu nơm mât phung biăp jêh ri mâu nhêt dak toh păng? 8Gâp ngơi pô aơ, tĭng vay bunuyh ngơi lĕ? Mâu di hĕ nau vay lah tâm ban pô nây? 9Yorlah geh nau nchih jêh tâm ndrom samƀŭt nau vay Y-Môis: "Lơi may put lơi mbung ndrôk dôl jot ba", knŏng ma phung ndrôk hĕ Brah Ndu mĭn? 10Mâu lah păng ngơi nau nây yor he? Ơ, yor he yơh geh nau nchih pô nây, ăn mbu nơm kai mir, mra kai ma nau kâp gân jêh ri mbu nơm jot ba mra jot ma nau kâp gân mra geh ma păng ƀă.
11Tơlah hên srih jêh tâm phung khân may drăp brah, jêng nau toyh lĕ tơlah hên rek drăp ndơ khân may tâm neh ntu aơ? 12Tơlah phung êng dơi ƀư nau vay nây ma khân may, mâu di hĕ hên dơi ƀư rlau lơn? Ƀiălah hên dơi ƀư rlau lơn? Ƀiălah hên mâu dŏng nau dơi nây ôh. Hên srôih ma lĕ rngôch ndơ, yorlah mâu ŭch njêng nau bâp ma nau mhe mhan ueh Brah Krist. 13Khân may mâu gĭt hĕ ma mbu nơm pah kan tâm ngih brah Yuđa sa ndơ ngih brah Yuđa nây jêh ri mbu nhhơr ndơ ƀư brah ta nơng geh ndơ bơh nơng nây? 14Tâm ban lĕ Kôranh Brah ntăm jêh ma phung mbơh nau mhe mhan ueh mra rêh ma nau mhe mhan ueh.
15Bi gâp, gâp mâu dŏng nau dơi nây ôh, jêh ri mâu di gâp nchih nau nây gay ma dăn ndơ ôh, yorlah gâp rŏng lơn nau khĭt, ma ăn bu sŏk lơi nau dơi tâm rnê nây bơh gâp. 16Tơlah gâp mbơh nau mhe mhan ueh, nau nây mâu dơi ăn gâp tâm rnê ma gâp nơm ôh. Yorlah nau khlay nây nchâp jêh gâp, jêh ri rêh ni yơh ma gâp tơlah gâp mâu mbơh nau mhe mhan ueh! 17Tơlah gâp pah kan nây ma nuih n'hâm ueh gâp geh nau nkhôm; tơlah gâp pah kan nây ma nuih n'hâm nchâp kđôi, ăt kan nây bu jao jêh ma gâp. 18Pôri, moh jêng nau nkhôm gâp? Păng jêng nau gâp mbơh dơm dam nau mhe mhan ueh, mâu dŏng ôh nau gâp dơi ƀư tâm ban nơm nti nau mhe mhan ueh.
19Yorlah dôl gâp mpăn gŭ bơh lĕ rngôch bunuyh, gâp njêng gâp nơm jêng dĭk ma lĕ rngôch pôri gâp dơi njŭn âk lơn bunuyh. 20Đah phung Yuđa gâp jêng tâm ban ma du huê Yuđa, pôri mơ gâp dơi njŭn phung Yuđa, đah phung gŭ tâm dâng nau vay, gâp jêng nâm bu tâm dâng nau vay, ƀiălah mâu di gâp mâu geh nau vay Brah Ndu ôh, pôri gâp dơi njŭn leo phung gŭ tâm dâng nau vay. 21Đah phung mâu geh nau vay gâp jêng tâm ban ma gâp mâu geh nau vay, ƀiălah mâu di gâp mâu geh nau vay Brah Ndu ôh, yorlah gâp gŭ tâm dâng nau vay Brah Krist, pôri mơ gâp dơi njŭn leo phung gŭ tâm dâng nau vay. 22Gâp jêng rdja ndrel ma phung rdja, pôri mơ gâp dơi njŭn leo phung rdja. Gâp jêng jêh lĕ rngôch ndơ ma lĕ rngôch bunuyh, pôri mơ gâp dơi tâm rklaih ƀaƀă tâm phung khân păng. 23Jêh ri gâp ƀư lĕ rngôch ndơ yor nau mhe mhan ueh, pôri mơ gâp dơi geh nau ueh uĭn tâm păng.
24Khân may mâu gĭt hĕ ma phung tâm rlong nchuăt tâm ntŭk pâl, lĕ rngôch nchuăt dadê, ƀiălah knŏng du huê geh nau nkhôm? Pôri, nchuăt hom gay ma geh nau nkhôm. 25Lĕ rngôch đơ phung tâm lơh ver ăp ntil ndơ, jêh ri khân păng ƀư nau nây gay geh đon hđăch mâu blau rai yot ôh. Ƀiălah he ƀư nau nây ŭch geh đon hđăch mâu blau rai lôch ôh. 26Pô nây yơh, mâu di gâp nchuăt dơm dam ôh jêh ri mâu di gâp dong tâm sial ôh; 27ƀiălah gâp ăn rêh ni ma săk jăn gâp jêh ri dơi đah păng, klach lah jêh gâp nti ma bu, Brah Ndu mra dun gâp tâm ban lĕ.

9

Phao-lô cũng như các sứ đồ khác

1Tôi là người tự do. Tôi làm sứ đồ. Tôi đã thấy Giê-xu, Chúa chúng ta. Các anh chị em là kết quả của công tác tôi trong Chúa Giê-xu. 2Nếu kẻ khác không chấp nhận tôi làm sứ đồ, anh chị em chắc vẫn chấp nhận tôi vì chính anh chị em là bằng cớ của chức sứ đồ tôi trong Chúa.
3Đây là câu trả lời của tôi cho những người thắc mắc về chức sứ đồ của tôi: 4Chúng tôi không có quyền ăn uống sao? 5Chúng tôi không có quyền mang theo một nữ tín hữu làm vợ mình giống các sứ đồ khác, như anh em Chúa hay như Phia-rơ đã làm sao? 6Hay chỉ một mình Ba-na-ba và tôi phải làm việc để sinh sống? 7Không có binh sĩ nào phục vụ trong quân ngũ mà lại tự trả lương cho mình. Chẳng ai trồng vườn nho mà không ăn trái. Không ai nuôi gia súc mà chẳng uống sữa của bầy gia súc.
8Không phải tôi nói theo kiểu con người đâu; luật pháp của Thượng Đế cũng nói như thế nữa. 9Vì như luật Mô-se có viết: “Đừng khớp miệng con bò đang đạp lúa, không cho nó ăn.” Khi Thượng Đế phán như thế có phải Ngài chỉ lo cho bò thôi sao? Không phải. 10Ngài lo cho chúng ta nữa. Thánh Kinh viết về chúng ta như sau, “Người cày ruộng và người đạp lúa phải trông mong thu được mùa màng để đền bù công khó mình.” 11Nếu chúng tôi đã gieo giống thiêng liêng giữa vòng anh chị em thì có gì quá đáng khi chúng tôi mong gặt hái ít nhiều về phần đời nầy từ anh chị em? 12Nếu những người khác có quyền làm như thế từ anh chị em thì chúng tôi cũng vậy. Nhưng chúng tôi đã không sử dụng quyền ấy. Chúng tôi cam chịu mọi sự để khỏi làm nguyên nhân cản trở việc rao Tin Mừng của Chúa Cứu Thế. 13Chắc hẳn anh chị em biết rằng ai phục vụ trong đền thờ thì lãnh thức ăn trong đền thờ, còn ai phục vụ nơi bàn thờ thì nhận được một phần của lễ dâng trên bàn thờ. 14Cũng thế, Chúa chúng ta đã dạy rằng ai rao Tin Mừng thì sống bằng Tin Mừng.
15Nhưng tôi chưa hề sử dụng những quyền ấy. Tôi viết những lời nầy không phải để mong nhận được gì từ anh chị em đâu. Tôi thà chết còn hơn đánh mất lý do kiêu hãnh nầy. 16Rao truyền Tin Mừng không phải là dịp để tôi khoe khoang. Đó là nhiệm vụ của tôi—tôi buộc phải làm. Nếu tôi không rao Tin Mừng thì tôi sẽ vô cùng khốn khổ. 17Nhưng nếu tôi tự chọn việc rao giảng thì tôi nhận được phần thưởng. Còn nếu tôi không tự chọn việc rao giảng thì tôi chỉ làm bổn phận Chúa giao cho. 18Thế thì tôi nhận được phần thưởng gì? Phần thưởng tôi nhận như sau: Khi tôi giảng Tin Mừng thì tôi rao giảng không thù lao. Riêng tôi đã không sử dụng quyền nhận thù lao trong công tác rao Tin Mừng.
19Tôi được tự do, chẳng bị ai ràng buộc. Nhưng tôi tự làm nô lệ cho mọi người để có thể cứu càng nhiều người càng tốt. 20Đối với người Do-thái tôi trở nên như người Do-thái để cứu được người Do-thái. Chính tôi không ở dưới luật pháp. Nhưng đối với những người ở dưới luật pháp thì tôi trở nên giống như họ. Tôi làm như thế để cứu những người ở dưới luật pháp. 21Đối với những người không có luật pháp, tôi sống như người không có luật pháp để cứu những người không có luật pháp. Thật ra tôi chưa thoát ly khỏi luật pháp của Thượng Đế—tôi bị luật pháp của Chúa Cứu Thế ràng buộc. 22Đối với người yếu đuối tôi trở nên yếu đuối để cứu những người yếu đuối. Tôi đã trở nên như mọi người để có thể cứu một số người bằng mọi cách. 23Tôi làm những điều ấy vì Tin Mừng để hi vọng được có phần ân phúc trong đó.
24Anh chị em biết rằng trong một cuộc chạy đua, mọi người cùng chạy nhưng chỉ có một người thắng giải mà thôi. Cho nên hãy cố gắng chạy thế nào để thắng giải! 25Ai thi đua trong các cuộc tranh tài đều phải hết sức tự chế để nhận được vương miện. Vương miện trần thế ấy sẽ khô héo sau một thời gian ngắn nhưng vương miện của chúng ta không bao giờ khô héo. 26Cho nên, tôi chạy nhưng không phải chạy mông lung. Tôi đánh nhưng không phải đánh gió. 27Tôi không dễ dãi với thân thể tôi, trái lại rất gắt gao với nó, bắt nó làm nô lệ cho tôi để tôi khỏi bị Thượng Đế gạt bỏ sau khi giảng cho kẻ khác.