13

Salơ Chíl Tỗp Phi-li-tin

1Toâq Salơ chỗn cỡt puo, án mbỡiq pái chít cumo; án cỡt sốt tâng cruang I-sarel pỗn chít cumo.
2Salơ rưoh pái ngin náq samiang tễ tỗp I-sarel; ma án cayoah bar ngin náq yỗn ỡt cớp án pỡ vil Mic-mat, cớp ỡt tâng máh dũal cớp cóh mpễr vil Bet-el. Ma tahan muoi ngin náq ễn, án ớn pỡq cớp Yô-nathan, con samiang án, pỡ vil Ki-bĩah, cruang Ben-yamin. Ma cũai noâng clữi tễ ki, án ớn píh chu loah pỡ dống alới bữm.
3Yô-nathan chíl riap tahan tỗp Phi-li-tin pỡ vil Kê-ba; chơ tỗp Phi-li-tin bữn sâng tễ ranáq nâi. Ngkíq Salơ ớn cũai plóng lavia pỡq pau chũop cruang cutễq alới yỗn tỗp Hê-brơ thrũan loŏh rachíl. 4Nheq tữh cũai I-sarel sâng noau pai puo alới khoiq chíl tahan tỗp Phi-li-tin, cớp tỗp Phi-li-tin sâng kêt lứq alới. Chơ tỗp alới loŏh parỗm cớp Salơ pỡ vil Kil-cal.
5Tỗp Phi-li-tin rôm parnơi ễ chíl tỗp I-sarel, cớp alới bữn sễ aséh rachíl pái chít ngin lám, tahan ỡt aséh tapoât ngin náq, cớp tahan canŏ́h clứng lứq riang chũah tâng tor dỡq mưt. Tỗp alới pỡq chu vil Mic-mat yáng angia mandang loŏh vil Bet Aven, cớp ỡt dỡ tâng ntốq ki. 6Moâm ki tỗp alới mut chíl tỗp I-sarel toâr lứq toau tỗp I-sarel tỡ rơi chĩuq noâng. Ngkíq tỗp I-sarel pỡq tooq pỡ cưp cớp tâng sarlia tacỡng, cớp bân mpứng dĩ raláp tamáu, cớp tâng prúng noau píq dŏq chứng dỡq. 7Ma bữn cũai tễ tỗp alới clong crỗng Yôr-dan, pỡq chu cutễq tỗp Cát cớp cruang Ki-liat.
 Ma puo Salơ noâng ỡt tâng vil Kil-cal. Máh tahan ỡt cớp án sâng ngcŏh lứq.
8Puo Salơ ỡt acoan tapul tangái, ariang Samu-ễl khoiq atỡng án. Ma Samu-ễl tỡ yũah toâq pỡ vil Kil-cal. Cớp máh cũai tahan ngcuai lúh tễ Salơ. 9Yuaq ngkíq, Salơ ớn alới neq: “Anhia pỡq ĩt crơng bốh chiau sang cớp crơng chiau sang dŏq cỡt ratoi, chơ dững pỡ cứq.”
 Chơ án bốh crơng ki dŏq chiau sang.
10Tữ moâm án chiau sang, chơ Samu-ễl toâq. Ngkíq án loŏh roap chỗm Samu-ễl. 11Samu-ễl blớh án: “Ntrớu mới táq?”
 Puo Salơ ta‑ỡi: “Máh tahan cứq lúh táh chíq cứq. Ma achuaih la tỡ cỡt toâq ariang achuaih khoiq pai. Ma hỡn tễ ki, tỗp Phi-li-tin parỗm parnơi pỡ vil Mic-mat.
12Cỗ ngkíq cứq chanchớm neq: ‘Tỗp Phi-li-tin ntôm ễ mut chíl cứq tâng vil Kil-cal, ma cứq tỡ yũah câu sễq tễ Yiang Sursĩ.’ Ngkíq yuaq cứq chanchớm cóq cứq bốh crơng chiau sang.”
13Samu-ễl ta‑ỡi: “Mới táq ngkíq la sacũl lứq! Mới tỡ bữn trĩh santoiq Yiang Sursĩ khoiq patâp mới. Khân mới trĩh, Yiang Sursĩ lứq yỗn mới cớp tŏ́ng toiq mới cỡt sốt cũai I-sarel mantái níc. 14Ma sanua, dống sũ mới cỡt sốt tỡ bữn dũn noâng, yuaq mới tỡ bữn trĩh santoiq Yiang Sursĩ. Ngkíq Yiang Sursĩ ễ chuaq cũai bữn muoi mứt cớp án, cớp án ễ chóh cũai ki yỗn cỡt sốt tỗp I-sarel, la proai án.”
15Chơ Samu-ễl loŏh tễ vil Kil-cal. Ma máh cũai noâng tâng vil Kil-cal, alới puai Salơ pỡq parỗm cớp tahan án. Tỗp alới loŏh tễ vil Kil-cal pỡq chu vil Ki-bĩah tâng cutễq tỗp Ben-yamin. Ngkíq puo Salơ noap máh tahan án, bữn noâng tapoât culám náq. 16Puo Salơ cớp Yô-nathan con samiang án, dếh tahan án, nheq náq alới ỡt pỡ vil Ki-bĩah tâng cutễq tỗp Ben-yamin. Ma tỗp Phi-li-tin ỡt tâng vil Mic-mat. 17Tahan tỗp Phi-li-tin tampễq cỡt pái tỗp, chơ loŏh tễ ntốq alới ỡt. Muoi tỗp pỡq chíl vil Ô-pra tâng cruang cutễq Sual. 18Tỗp bar pỡq chu coah angia vil Bet Hô-rôn; ma tỗp pái pỡq coah raloan yáng pỡng avúng Sê-bô-im cheq ntốq aiq.
19Bo ki tỗp I-sarel ŏ́q loâng cũai chiang dudễr, yuaq tỗp Phi-li-tin tỡ ễq cũai Hê-brơ dễr dau tỡ la coih. 20Ma cũai I-sarel dũ náq dốq pỡq chu tỗp Phi-li-tin yỗn alới dễr atức cớp kit loah achât, sán, liem, cớp pla lái-cái. 21Kia noau kit achât, tỡ la atức crơng noau dốq ễp ntroŏq, la muoi ŏ́c práq tiaq. Ma kia noau kit sarĩam cớp pla lái-cái, muoi pla la bar ŏ́c práq tiaq. 22Yuaq ngkíq, toâq tangái rachíl, tahan tỗp I-sarel tỡ bữn noau bữn dau tỡ la coih. Ma ống Salơ cớp Yô-nathan con samiang án sâng bữn crơng choac.
23Chơ tỗp Phi-li-tin ớn muoi tỗp tahan pỡq chu ntốq hễp cheq raláp Mic-mat yỗn kĩaq ntốq ki.

13

Lỗi thứ nhất của Sau-lơ: tự ý dâng tế lễ thiêu

1Sau-lơ lên làm vua lúc ông đã được bốn mươi tuổi. Vua cai trị Y-sơ-ra-ên ... và hai năm. 2Sau-lơ chọn ba nghìn người Y-sơ-ra-ên: hai nghìn người ở với ông tại Mích-ma và trên núi Bê-tên, còn một nghìn người thì ở với Giô-na-than tại Ghi-bê-a thuộc Bên-gia-min. Số còn lại ông cho ai về nhà nấy.
3Giô-na-than đánh bại đồn quân Phi-li-tin ở Ghê-ba, người Phi-li-tin biết được tin nầy. Còn Sau-lơ cho thổi kèn khắp xứ và rao rằng: “Dân Hê-bơ-rơ hãy lắng nghe!” 4Vì vậy, toàn thể Y-sơ-ra-ên đều biết rằng Sau-lơ đã đánh bại đồn quân Phi-li-tin, và Y-sơ-ra-ên bị người Phi-li-tin căm ghét. Bấy giờ, dân chúng được kêu gọi đi theo Sau-lơ tại Ghinh-ganh.
5Khi ấy, người Phi-li-tin tập trung lại để đánh Y-sơ-ra-ên. Chúng có ba mươi nghìn chiến xa, sáu nghìn kỵ binh, và quân lính đông như cát bãi biển. Chúng đi lên đóng trại ở Mích-ma, về phía đông Bết A-ven. 6Khi người Y-sơ-ra-ên thấy nguy cấp, vì quân mình bị áp đảo, thì dân chúng ẩn trốn trong các hang động, bụi rậm, hốc đá, mồ mả và hầm hố. 7Một số người Hê-bơ-rơ khác thì vượt qua sông Giô-đanh, đến xứ Gát và Ga-la-át. Nhưng Sau-lơ vẫn còn ở lại Ghinh-ganh, và tất cả những người đi theo ông đều run sợ.
8Sau-lơ đợi bảy ngày, là thời gian mà Sa-mu-ên đã định. Nhưng Sa-mu-ên vẫn chưa đến Ghinh-ganh, còn dân chúng thì bỏ vua đi tản mác. 9Bấy giờ, Sau-lơ nói: “Hãy đem đến cho ta tế lễ thiêu và tế lễ bình an.” Rồi vua dâng tế lễ thiêu. 10Khi vua vừa dâng xong tế lễ thiêu thì Sa-mu-ên đến. Sau-lơ ra chào đón ông. 11Sa-mu-ên hỏi: “Ngươi đã làm gì vậy?” Sau-lơ trả lời: “Tôi thấy dân chúng bỏ tôi đi tản mác, còn ông lại không đến theo thời gian đã định, và người Phi-li-tin đã tập trung tại Mích-ma, 12nên tôi nghĩ rằng người Phi-li-tin chắc sắp tấn công tôi tại Ghinh-ganh, mà tôi chưa cầu khẩn Đức Giê-hô-va. Vì vậy, tôi miễn cưỡng dâng tế lễ thiêu.” 13Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: “Ngươi thật đã hành động một cách điên rồ, không vâng giữ mệnh lệnh mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã truyền cho ngươi. Lẽ ra, Đức Giê-hô-va đã lập vương quốc của ngươi vững bền đời đời trên Y-sơ-ra-ên; 14nhưng bây giờ, vương quốc của ngươi sẽ không bền lâu nữa. Đức Giê-hô-va đã chọn cho mình một người đẹp lòng Ngài, đặt người ấy làm người lãnh đạo của dân Ngài, bởi vì ngươi đã không vâng giữ mệnh lệnh của Đức Giê-hô-va.” 15Nói xong, Sa-mu-ên đứng dậy, từ Ghinh-ganh đi đến Ghi-bê-a thuộc Bên-gia-min, còn Sau-lơ điểm lại quân số ở với mình, có khoảng sáu trăm người.

Chuẩn bị cho cuộc chiến

16Sau-lơ và Giô-na-than, con trai ông, cùng quân lính đi theo, đều đóng tại Ghi-bê-a thuộc Bên-gia-min, còn người Phi-li-tin hạ trại tại Mích-ma. 17Có một đội quân đột kích từ trong trại quân Phi-li-tin đi ra, chia làm ba toán: một toán theo con đường Óp-ra, đi đến đất Su-anh; 18một toán theo con đường Bết Hô-rôn; còn toán thứ ba theo đường ranh giới nằm trên thung lũng Sê-bô-im, về hướng hoang mạc.
19Lúc ấy, trong khắp xứ Y-sơ-ra-ên không tìm được một thợ rèn nào cả, vì người Phi-li-tin nói: “Không được để cho người Hê-bơ-rơ rèn gươm và giáo.” 20Vì thế, toàn thể người Y-sơ-ra-ên đều phải xuống chỗ người Phi-li-tin để rèn lưỡi cày, cuốc, rìu, và lưỡi hái cho mình. 21Khi nào lưỡi cày, cuốc, chĩa ba, rìu hay mũi đót bị sứt mẻ thì họ cũng phải xuống để mài và sửa cái đót lại. 22Vì thế lúc giao tranh, tất cả những người theo Sau-lơ và Giô-na-than đều không có gươm cũng không có giáo trong tay; chỉ Sau-lơ và con của ông là Giô-na-than mới có.
23Một đơn vị quân Phi-li-tin kéo ra đóng tại đèo Mích-ma.