7

1Mas Elisa hais tias, “Cia li mloog Yawmsaub tej lus. Yawmsaub hais li no tias, ‘Tagkis lub sijhawm no cov hmoov mog zoo zoo ib xe‑a lawv yuav muag ib sekhee, ob xe‑a qeb muag ib sekhee ntawm lub rooj loog Xamali.’ ” 2Ces tus thawj rog uas nrog nraim vajntxwv txawm hais rau Vajtswv tus neeg tias, “Txawm yog Yawmsaub qheb qhov rais saum ntuj los tej no yuav muaj tau lov?” Mas Elisa hais tias, “Koj lub qhov muag yuav pom ntag tiamsis koj yuav tsis tau noj.”
3Muaj plaub tug yawg mob ruas nyob sab nraum rooj loog. Lawv sib tham tias, “Ua cas peb yuav zaum ntawm no mus txog thaum tuag? 4Yog peb hais tias, ‘Cia peb nkag mus rau hauv lub nroog,’ hauv lub nroog kuj tshaib plab, ces peb kuj yuav tuag rau hauv thiab xwb. Yog peb nyob ntawm no, peb kuj yuav tuag ib yam nkaus. Yog li ntawd peb cia li mus rau hauv cov Alas lub yeej. Yog lawv tseg peb txojsia peb kuj dim, yog lawv tua peb, peb kuj tuag thiab xwb.” 5Thaum tsaus ntuj zuag lawv thiaj mus rau hauv cov Alas lub yeej. Thaum lawv mus txog cov Alas lub ntug yeej, ua ciav tsis muaj ib tug neeg nyob kiag li, 6vim yog Yawmsaub ua rau Alas cov tub rog hnov ib lub suab tsheb ua rog suab nees yam li yog ib pab tub rog coob coob li suab nrov, lawv thiaj sib tham tias, “Saib maj, Yixayee tus vajntxwv tau ntiav cov Hithai tej vajntxwv thiab cov Iyi tej vajntxwv tuaj ua rog rau peb.” 7Lawv txawm khiav tag rau thaum tsaus ntuj zuag lawm, tseg lawv tej tsev ntaub tej nees tej nees luav thiab tseg lub yeej zoo li qub, cia li khiav kom dim siav xwb. 8Thaum cov mob ruas mus txog ntawm ntug yeej, lawv nkag mus rau hauv ib lub tsev ntaub mas noj thiab haus, thiab nqa tej nyiaj tej kub tej ris tsho coj mus zais cia. Lawv ho rov los nkag dua rau hauv ib lub tsev ntaub thiab nqa tej qhov txhia chaw coj mus zais cia.
9Ces lawv txawm sib tham tias, “Peb ua tsis raug cai lawm. Hnub no yog hnub uas muaj xov zoo. Yog peb nyob twjywm tos txog kaj ntug, lub txim yuav poob rau saum peb. Yog li no nimno peb cia li mus hais rau vajntxwv tsev neeg.” 10Lawv thiaj mus hu cov uas zov rooj loog thiab hais zaj ntawd rau lawv tias, “Peb los ntawm Alas lub yeej los, mas peb tsis pom muaj leejtwg thiab tsis hnov ib lub suab neeg li, tsuas yog pom tej nees thiab tej nees luav khi cia rau ntawd xwb, thiab tej tsev ntaub nyob zoo yam li qub.” 11Ces cov uas zov rooj loog thiaj qw hu mus, ces txawm muaj neeg hais mus rau vajntxwv tsev neeg paub. 12Vajntxwv txawm sawv tsees tsaus ntuj nti hais rau nws cov tub teg tub taws tias, “Kuv yuav hais rau nej paub tias cov Alas npaj tswvyim ua rog li cas rau peb. Lawv yeej paub tias peb tshaib heev, lawv thiaj tawm tsiv nraim rau nraum lub yeej thiab tom tej hav nroj, xav tias, ‘Thaum lawv tawm hauv lub nroog, peb yuav ntes kiag lawv thiab txeem mus rau hauv lub nroog.’ ” 13Nws cov tub teg tub taws ib tug hais tias, “Cov neeg uas tseem tshuav nyob hauv lub nroog no yuav zoo yam li cov Yixayee coob coob uas puam tsuaj lawm xwb, mas cia qee leej muab cov nees uas tseem tshuav tsib tug los, thiab peb cia li txib neeg mus tshuaj saib.” 14Lawv thiaj muab ob lub tsheb ua rog thiab nees los mas vajntxwv txawm tso lawv raws Alas cov tub rog qab mus hais tias, “Cia li mus tshuaj saib.” 15Lawv thiaj raws mus txog tus dej Yaladee, ua ciav thoob txojkev ntawd tsuas pom muaj ris tsho thiab tej twj siv uas cov Alas muab tso pov tseg rau thaum lawv maj nroos khiav. Cov uas mus tshuaj thiaj rov los qhia rau vajntxwv paub.
16Cov pejxeem thiaj tawm mus lws tej qhov txhia chaw hauv cov Alas lub yeej. Yog li ntawd thiaj muab cov hmoov mog zoo ib xe‑a muag ib sekhee, thiab ob xe‑a qeb muag ib sekheef raws li Yawmsaub tej lus. 17Vajntxwv tau tsa tus thawj rog uas nrog nraim vajntxwv ua tus uas zov rooj loog. Mas cov pejxeem muab nws tsuj ntog rau ntawm rooj loog nws thiaj tuag, raws li Vajtswv tus neeg tau hais rau thaum vajntxwv tuaj rau ntawm nws. 18Thaum Vajtswv tus neeg hais rau vajntxwv tias, “Ob xe‑a qeb muag ib sekhee, cov hmoov mog zoo ib xe‑a muag ib sekheef rau tagkis lub sijhawm no rau ntawm lub rooj loog Xamali,” 19tus thawj rog uas nrog nraim vajntxwv teb Vajtswv tus neeg hais tias, “Txawm yog Yawmsaub qheb qhov rais saum ntuj los tej no yuav muaj tau lov?” Thiab Elisa hais tias, “Koj lub qhov muag yuav pom ntag tiamsis koj yuav tsis tau noj.” 20Ces thiaj muaj raws li ntawd rau nws, yog cov pejxeem muab nws tsuj ntawm rooj loog nws thiaj tuag lawm.

7

Sự giải cứu Sa-ma-ri

1 Ê-li-sê bèn nói rằng: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mai, tại giờ nầy, nơi cửa thành Sa-ma-ri, một đấu bột lọc sẽ bán một siếc-lơ, và hai đấu lúa mạch sẽ bán một siếc-lơ. 2 Quan cai nâng đỡ vua, đáp với người Đức Chúa Trời rằng: Dầu cho Đức Giê-hô-va mở các cửa sổ trên trời, điều đó há có được sao? Ê-li-sê đáp: Chính mắt ngươi sẽ thấy, nhưng ngươi không đặng ăn đến.
3 Tại cửa thành có bốn người phung nói với nhau rằng: Chúng ta ngồi đây đến chừng chết mà làm chi? 4 Nếu chúng ta nhứt định vào thành, thì ở đó có đói kém, và chúng ta sẽ chết đói; bằng chúng ta cứ ngồi đây, thì chúng ta cũng sẽ chết. Vậy, chúng ta hãy qua trại quân Sy-ri: Nếu họ dung thứ ta, thì ta sẽ sống; bằng họ giết đi, dẫu thế nào, chúng ta cũng sẽ chết đó thôi. 5 Vậy, lúc chạng vạng, các người phung chỗi dậy đặng đi đến trại quân của dân Sy-ri; khi tới đầu trại quân, họ chẳng thấy ai ở đó hết. 6 Vì Chúa đã khiến trại quân Sy-ri nghe tiếng xe, ngựa và tiếng đạo binh lớn; nên nỗi dân Sy-ri nói với nhau rằng: Kìa, vua Y-sơ-ra-ên đã mướn vua dân Hê-tít và vua Ê-díp-tô đặng hãm đánh chúng ta. 7 Chúng liền chỗi dậy, chạy trốn lúc chạng vạng, bỏ các trại, ngựa, và lừa mình, để trại quân mình như cũ; chúng trốn đặng cứu mạng sống mình.
8 Khi các người phung kia đến đầu trại quân, bèn vào trong một trại, ăn và uống; đoạn họ lấy bạc, vàng, và quần áo đem đi giấu. Chúng trở lại, vào trong một trại khác, ở đó, cũng lấy những của cải mà đem đi giấu luôn. 9 Bấy giờ, họ bèn nói với nhau rằng: Chúng ta làm chẳng phải; ngày nay là ngày có tin lành, và chúng ta nín lặng sao! Nếu chúng ta đợi đến rạng đông, thì sự hình phạt chắc sẽ lâm vào chúng ta. Vậy, ta hãy đi báo tin nầy cho nhà vua. 10 Chúng liền đi, gọi quân canh cửa thành, thuật cho họ rằng: Chúng tôi có đi đến trại quân Sy-ri, thấy chẳng có ai hết, cũng không nghe tiếng người nào; chỉ thấy những ngựa và lừa đương cột, và những trại bỏ lại như cũ. 11 Quân canh cửa bèn gọi người đi báo tin ấy vào trong đền vua.
12 Vua chỗi dậy ban đêm, nói với các tôi tớ mình rằng: Ta sẽ bày tỏ cho các ngươi điều dân Sy-ri toan làm cho chúng ta. Chúng nó biết chúng ta đói; nên chi họ đã ra khỏi trại quân mình đặng phục trong đồng. Chúng nó đã nói nhau rằng: Khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi thành, chúng ta sẽ bắt sống chúng nó, rồi chúng ta sẽ vào trong thành. 13 Một người tôi tớ của vua thưa rằng: Kìa, ngựa còn sót lại cũng hao mòn như đoàn dân Y-sơ-ra-ên còn lại ở trong thành; về sau nó quả sẽ đồng số phận cùng đoàn dân đông đã chết mất. Vì vậy, ta hãy truyền lịnh cho người nào bắt năm con ngựa trong số còn lại đặng đi dò thám. 14 Vậy chúng lấy hai cái xe thắng ngựa vào, rồi vua sai người đi theo đạo quân Sy-ri, mà rằng: Hãy đi xem.
15 Chúng đi theo họ cho đến Giô-đanh, thấy khắp dọc đường đầy những quần áo và đồ đạc mà quân Sy-ri đã quăng trong lúc chạy trốn hối hả. Các sứ giả trở về thuật lại cho vua hay. 16 Dân sự bèn kéo ra, cướp lấy trại quân Sy-ri, đến đỗi một đấu bột lọc bán một siếc-lơ, và hai đấu lúa mạch cũng bán một siếc-lơ, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán.
17 Vua cắt quan cai nâng đỡ mình, canh giữ cửa thành; nhưng dân chúng đạp dẹp người tại nơi cửa thành, và người chết, y như người của Đức Chúa Trời đã nói trước khi vua đến kiếm người. 18 Vả lại, việc xảy ra như lời người của Đức Chúa Trời đã nói với vua rằng: Ngày mai, tại giờ nầy, nơi cửa thành Sa-ma-ri, hai đấu lúa mạch sẽ bán một siếc-lơ, và một đấu bột lọc cũng bán một siếc-lơ; 19 rồi quan cai có đáp với người của Đức Chúa Trời rằng: Dẫu cho Đức Giê-hô-va mở các cửa sổ trên trời, điều đó há có được sao? Ê-li-sê bèn tiếp rằng: Mắt ngươi sẽ thấy điều đó, song ngươi không ăn đến. 20 Ấy là điều xảy đến; vì dân chúng đạp dẹp người dưới chân tại cửa thành, và người chết.