9

A-bi-mê-léc Mưu Đồ Soán Vị

1Bấy giờ A-bi-mê-léc, con của Giê-ru-ba-anh đến Si-chem gặp các cậu và những bà con bên ngoại của hắn và nói với họ rằng: 2“Hãy đi hỏi tất cả những thủ lãnh ở Si-chem xem: ‘Điều nào là tốt hơn cho quý vị, tất cả bảy mươi con trai của Giê-ru-ba-anh cai trị quý vị, hay chỉ cần một người cai trị quý vị thôi?’ Hãy nhớ rằng tôi là máu mủ ruột thịt của quý vị đó.” 3Vậy những bà con bên ngoại của hắn lặp lại những lời nầy để ủng hộ hắn trước mặt những thủ lãnh của Si-chem. Lòng họ bèn nghiêng theo A-bi-mê-léc, vì họ nói: “Ông ấy là anh em của chúng ta mà.” 4Họ bèn cho A-bi-mê-léc bảy mươi miếng bạc lấy từ quỹ trong đền thờ của Ba-anh Bê-rít. A-bi-mê-léc dùng số bạc đó mướn những kẻ du đảng hoang đàng đi theo hắn. 5Hắn trở về nhà cha hắn ở Óp-ra, và trên một tảng đá giết chết bảy mươi anh em của hắn, là các con trai của Giê-ru-ba-anh; ngoại trừ Giô-tham, là con trai út của Giê-ru-ba-anh, còn sống sót, vì người ấy ẩn trốn. 6Bấy giờ tất cả các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô họp nhau lại tại trụ đá cạnh cây sồi ở Si-chem và lập A-bi-mê-léc làm vua.

Ngụ Ngôn Về Các Cây Cối

7Khi Giô-tham nghe được tin ấy, ông bèn đi lên đỉnh đèo trên núi Ghê-ri-xim, cất tiếng lớn và nói rằng:
  “Hỡi những thủ lãnh của Si-chem, xin hãy nghe tôi,
   Hầu cho Đức Chúa Trời có thể nghe quý vị:
  8Các cây cối đến với nhau để xức dầu
   Cho một kẻ làm vua trên chúng.
  Chúng đến nói với cây ô-liu rằng:
   ‘Hãy trị vì chúng tôi.’
  9Cây ô-liu đáp:
   ‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất dầu của ta,
   Là dầu các thần linh và các vua CHÚA tôn quý,
   Mà đi dao động trên các cây cối sao?’
  10Các cây bèn đến cây vả và nói:
   ‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’
  11Nhưng cây vả đáp:
   ‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất sự ngọt ngào của ta,
   Và những trái ngọt ngon của ta,
   Mà đi dao động trên các cây cối sao?’
  12Các cây bèn đến cây nho và nói:
   ‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’
  13Nhưng cây nho đáp:
   ‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất rượu nho của ta,
   Là rượu làm cho các thần linh và các phàm nhân phấn khởi,
   Mà đi dao động trên các cây cối sao?’
  14Các cây bèn đến cây gai và nói:
   ‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’
  15Cây gai bèn nói với chúng:
   ‘Nếu các ngươi thật lòng muốn xức dầu cho ta làm vua trên các ngươi,
   Thì hãy đến núp dưới bóng của ta;
   Nếu không, lửa từ gai ta sẽ phát ra
   Thiêu rụi những cây tùng hương của Li-ban.’
16Vậy bây giờ, nếu quý vị bởi lòng thành và danh dự mà tôn A-bi-mê-léc lên làm vua, nếu quý vị đối xử tốt với Giê-ru-ba-anh và gia đình người, và báo đáp cho người xứng đáng với những việc người đã làm, 17vì cha tôi đã chiến đấu cho quý vị, xả thân cho quý vị, và giải cứu quý vị khỏi tay dân Ma-đi-an; 18nhưng bây giờ quý vị nổi lên nghịch lại gia đình của cha tôi, giết hại các con trai người, bảy mươi người chết trên một tảng đá, rồi tôn A-bi-mê-léc, con trai của tỳ thiếp người lên làm vua trên các thủ lãnh của Si-chem, bởi vì hắn là bà con của quý vị, 19vậy ngày nay, nếu quý vị bởi lòng thành và danh dự mà đối với Giê-ru-ba-anh và gia đình người, thì xin quý vị cứ vui vẻ với A-bi-mê-léc, và hãy để hắn vui vẻ với quý vị; 20nhưng nếu không phải, thì nguyện lửa từ A-bi-mê-léc thoát ra thiêu hủy các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô; và nguyện lửa từ các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô thiêu hủy A-bi-mê-léc.” 21Nói xong, Giô-tham chạy trốn đến xứ Bê-e. Ông trốn đến đó vì sợ anh của ông là A-bi-mê-léc.

A-bi-mê-léc Thất Bại

22A-bi-mê-léc cai trị trên Y-sơ-ra-ên được ba năm. 23Bấy giờ CHÚA cho phép một tà linh đến giữa A-bi-mê-léc và các thủ lãnh của Si-chem; và các thủ lãnh của Si-chem sinh lòng phản bội A-bi-mê-léc. 24Điều nầy xảy ra để báo thù cho tội ác đối với bảy mươi con trai của Giê-ru-ba-anh, và máu của họ phải đổ lại trên A-bi-mê-léc, là anh em của họ, và là kẻ đã giết họ, đồng thời cũng đổ lại trên các thủ lãnh của Si-chem là những người đã tiếp tay cho A-bi-mê-léc để giết hại các anh em của hắn. 25Vậy, để bày tỏ sự chống đối của họ, các thủ lãnh của Si-chem tổ chức những cuộc phục kích ở các đỉnh đèo. Họ cướp giựt những khách bộ hành qua lại các nơi đó; và người ta báo cáo cho A-bi-mê-léc biết chuyện nầy.
26Lúc ấy, Ga-anh con trai Ê-bết, cùng với anh em hắn dọn vào Si-chem. Các thủ lãnh của Si-chem để lòng tin tưởng nơi hắn. 27Chúng ra đồng, hái nho, ép rượu, và tổ chức tiệc mừng. Rồi chúng vào đền thờ thần của chúng mà ăn, uống và chế giễu A-bi-mê-léc. 28Ga-anh con trai Ê-bết nói: “A-bi-mê-léc là ai, và chúng ta là ai trong thành Si-chem nầy mà phải phục vụ hắn? Há chẳng phải con trai của Giê-ru-ba-anh và Xê-bun là quan viên của hắn phải phục vụ những người của Ha-mô, tổ phụ của Si-chem hay sao? Tại sao chúng ta phải phục vụ hắn chứ? 29Nếu dân nầy mà ở dưới quyền tôi, thì tôi sẽ dẹp bỏ hắn ngay. Tôi sẽ bảo A-bi-mê-léc rằng, ‘Có giỏi thì dẫn hết đạo quân của ngươi ra đây.’ ”
30Khi Xê-bun, là quan viên cai trị thành, nghe những lời của Ga-anh con trai Ê-bên nói thế thì rất tức giận. 31Xê-bun mật sai các sứ giả đến gặp A-bi-mê-léc tại A-ru-ma và tâu rằng: “Đây nầy, Ga-anh con trai Ê-bết và anh em hắn đã kéo đến Si-chem; chúng đang xúi giục dân thành chống lại vua. 32Vậy bây giờ, ban đêm, xin vua và các đội quân của vua hãy đến và nằm phục kích ngoài đồng. 33Đợi khi hừng đông đến, vừa khi mặt trời mọc, xin hãy tấn công vào thành; rồi khi hắn và binh sĩ của hắn kéo ra đối địch, xin vua hãy xử chúng như thế nào tuỳ ý.”
34Vậy A-bi-mê-léc và tất cả quân lính của hắn chỗi dậy, chia thành bốn đội, đang đêm tiến đến Si-chem, và nằm phục kích ngoài đồng. 35Khi Ga-anh con trai Ê-bết đi ra và đứng ở cổng thành, A-bi-mê-léc và các quân lính hắn từ chỗ phục kích chỗi dậy. 36Ga-anh thấy vậy, nói với Xê-bun: “Xem kìa, có người từ trên các đỉnh núi đi xuống!” Xê-bun đáp: “Ấy chỉ là bóng mát của núi mà ông tưởng là người ta đó thôi.” 37Ga-anh lại nói: “Xem kìa, có người đang từ giữa đồi tràn xuống, và một đội nữa đang từ hướng Cây Thầy Bói đổ về.” 38Bấy giờ Xê-bun nói: “Những lời phách lối của ông đâu rồi? Ông là người đã nói rằng: ‘A-bi-mê-léc là ai mà chúng ta phải phục vụ hắn?’ Có phải đây là đội quân mà ông đã coi thường chăng? Vậy bây giờ xin ông hãy ra đối địch với họ đi.”
39Vậy Ga-anh đi trước các thủ lãnh của Si-chem và ra đối địch với A-bi-mê-léc. 40A-bi-mê-léc đánh đuổi hắn và hắn bỏ chạy trước mặt A-bi-mê-léc. Nhiều người đã tử thương và ngã xuống, đến tận cổng thành. 41Vậy A-bi-mê-léc ở tại A-ru-ma, còn Xê-bun đuổi Ga-anh và anh em hắn đi, và chúng không còn ở trong Si-chem nữa.
42Hôm sau, dân thành đi ra đồng. Khi nghe tin báo, 43A-bi-mê-léc liền dẫn quân lính, chia làm ba đội, nằm phục kích ngoài đồng. Khi hắn thấy dân chúng từ trong thành đã ra đồng, hắn và quân lính hắn chỗi dậy đánh giết họ. 44A-bi-mê-léc và đội quân đi với hắn tiến vào án ngữ cổng thành, trong khi hai đội kia tấn công những người còn ở ngoài đồng và giết họ. 45Suốt ngày hôm đó, A-bi-mê-léc tấn công thành; hắn chiếm được thành, giết chết dân cư trong thành, phá hủy thành, và rắc muối trên nó.
46Khi các thủ lãnh ở Tháp Si-chem nghe thế, họ liền rút vào chiến lũy của đền thờ thần Ên-Bê-rít. 47A-bi-mê-léc được báo tin rằng tất cả các thủ lãnh của Tháp Si-chem đang họp lại trong đó. 48A-bi-mê-léc liền lên núi Sanh-môn với đội quân hắn. Hắn lấy một cái rìu, chặt mấy nhánh cây, rồi vác lên vai. Xong hắn bảo các quân sĩ hắn rằng: “Các ngươi có thấy điều ta làm chăng. Lẹ lên. Hãy làm như ta làm.” 49Vậy mỗi binh sĩ đều chặt các nhánh cây, vác trên vai, đi theo A-bi-mê-léc xuống chất xung quanh chiến lũy và châm lửa đốt nó. Thế là tất cả những người trong Tháp Si-chem đều chết hết; ước chừng một ngàn người, cả nam lẫn nữ.
50Sau đó A-bi-mê-léc kéo đến Thê-be, vây lấy Thê-be, và đánh hạ thành ấy. 51Nhưng trong thành có một cái tháp rất kiên cố. Tất cả dân chúng trong thành, cả nam lẫn nữ, và các thủ lãnh của thành đều rút vào trong tháp đó, khóa chặt cửa lại, rồi lên trên sân thượng của tháp. 52A-bi-mê-léc bèn tiến gần và tấn công tháp. Nhưng khi hắn lại gần cổng tháp để châm lửa đốt nó, 53thì có một phụ nữ lấy nửa trên của cối đá ném trúng đầu của hắn và làm hắn bị vỡ sọ. 54Hắn liền gọi người lính vác binh khí cho hắn và bảo: “Hãy rút gươm ra và giết ta ngay, kẻo người ta sẽ bảo: ‘Hắn đã bị một người đàn bà giết chết.’ ” Vậy người lính trẻ đâm hắn một nhát và hắn chết. 55Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy rằng A-bi-mê-léc đã chết, họ đều trở về nhà mình. 56Như thế, Đức Chúa Trời đã báo trả cho A-bi-mê-léc tội ác mà hắn đã phạm cùng cha hắn, vì hắn giết chết bảy mươi anh em của hắn. 57Đức Chúa Trời cũng khiến mọi sự gian ác của dân Si-chem đổ lại trên đầu họ. Những lời nguyền rủa của Giô-tham, con trai Giê-ru-ba-anh đã đến trên chúng.

9

Klei Y-Abimêlek Kiă Kriê

1Y-Abimêlek, anak êkei Y-Jêrubaal nao kơ ƀuôn Sičem kơ phung găp djuê amĭ ñu leh anăn lač kơ digơ̆ leh anăn kơ jih găp djuê amĭ ñu, 2“Lač bĕ kơ knga jih jang phung mnuih ƀuôn Sičem, ‘Ya jăk hĭn kơ diih, jih jang kjuh pluh čô anak êkei Y-Jêrubaal kiă kriê diih, amâodah knŏng sa čô kiă kriê diih?’ Brei diih hdơr mơh kâo jing klang leh anăn kđeh diih.” 3Phung găp djuê amĭ ñu bi ala ñu blŭ jih klei anăn kơ knga jih phung êkei hlăm ƀuôn Sičem; leh anăn ai tiê diñu mđing čiăng tui hlue Y-Abimêlek. Kyuadah diñu lač, “Ñu jing ayŏng adei drei.” 4Diñu brei kơ Y-Abimêlek kjuh pluh klŏ prăk diñu mă mơ̆ng sang yang Baal-Bêrit, hŏng prăk anăn ñu mưn phung êkei hơăi mang leh anăn tă tăn tui hlue gơ̆. 5Ñu nao kơ sang ama ñu ti ƀuôn Ôphra, leh anăn bi mdjiê phung ayŏng adei ñu, phung anak êkei Y-Jêrubaal, kjuh pluh čô ti dlông sa klŏ boh tâo. Knŏng Y-Jôtham anak êkei Y-Jêrubaal mda hĭn adôk, kyuadah ñu đuĕ dăp leh. 6Jih jang mnuih ƀuôn Sičem hriê mđrăm mbĭt, mbĭt hŏng jih jang mnuih ƀuôn Bet-Milô, leh anăn diñu nao mjing Y-Abimêlek mtao giăm ana kyâo prŏng ti kmeh boh tâo ƀuôn Sičem.
7Tơdah arăng yăl dliê klei anăn kơ Y-Jôtham, ñu nao dôk ti dlông čŏng čư̆ Gêrasim, ur kraih leh anăn lač kơ digơ̆, “Hmư̆ bĕ kơ kâo, Ơ phung êkei ƀuôn Sičem, snăn Aê Diê dưi hmư̆ diih. 8Sa hruê đưm adih, jih jang ana kyâo nao čiăng trôč êa ƀâo mngưi kơ sa čô mtao kiă kriê diñu. Diñu lač kơ ana kyâo ôliwơ, ‘Brei ih jing mtao kiă kriê phung hmei.’ 9Ƀiădah ana kyâo ôliwơ lŏ wĭt lač kơ diñu, ‘Kâo srăng lui mơ̆ êa kâo, hŏng dŏ anăn phung yang leh anăn mnuih mâo klei mpŭ, leh anăn kâo nao čiăng kiă kriê phung kyâo?’ 10Leh anăn jih jang ana kyâo lač kơ ana hra, ‘Hriê bĕ, brei ih jing mtao kiă kriê hmei.’ 11Ƀiădah ana hra lŏ wĭt lač kơ diñu, ‘Kâo srăng lui mơ̆ klei mmih leh anăn boh kâo jăk čiăng nao kiă kriê phung ana kyâo?’ 12Leh anăn jih jang ana kyâo lač kơ phŭn boh kriăk ƀâo, ‘Hriê bĕ, brei ih jing mtao kiă kriê phung hmei.’ 13Ƀiădah phŭn boh kriăk ƀâo lač kơ diñu, ‘Kâo srăng lui mơ̆ kpiê kâo, dŏ anăn bi mơak kơ phung yang leh anăn mnuih, čiăng nao leh anăn kiă kriê kpiê ana kyâo?’ 14Snăn jih jang phung ana kyâo lač kơ pum êruê, ‘Hriê bĕ, brei ih jing mtao kiă kriê hmei.’ 15Leh anăn pum êruê lač kơ ana kyâo, ‘Tơdah hŏng ai tiê sĭt suôr diih trôč êa ƀâo mngưi brei kâo jing mtao kiă kriê diih, snăn hriê bĕ leh anăn kđap hlăm êyui kâo; ƀiădah tơdah amâo djŏ snăn ôh, brei mâo pui kbiă mơ̆ng pum êruê leh anăn čuh ana kyâo sêdar čar Liƀan.’
16Kyuanăn ară anei tơdah diih ngă hŏng ai tiê sĭt suôr leh anăn hŏng klei mpŭ êjai diih mjing Y-Abimêlek mtao, leh anăn tơdah diih ngă jăk kơ Y-Jêrubaal leh anăn kơ sang ñu, leh anăn ngă kơ ñu tui si djŏ hŏng bruă ñu — 17kyuadah ama kâo bi blah brei leh kơ diih, ñu săn asei mlei leh, leh anăn bi mtlaih leh diih mơ̆ng kngan phung Madian; 18ƀiădah hruê anei diih kgŭ bi kdơ̆ng hŏng sang ama kâo, leh anăn bi mdjiê leh kjuh pluh čô anak êkei ti dlông sa klŏ boh tâo, leh anăn mă Y-Abimêlek, anak êkei dĭng buăl mniê ñu, mjing gơ̆ mtao kiă kriê mnuih ƀuôn Sičem, kyuadah gơ̆ jing găp diih — 19hruê anei tơdah diih ngă hŏng ai tiê sĭt suôr leh anăn hŏng klei mpŭ kơ Y-Jêrubaal leh anăn sang ñu, snăn mơak bĕ kyua Y-Abimêlek, leh anăn brei ñu msĕ mơh mơak kyuadah diih. 20Ƀiădah tơdah amâo djŏ snăn ôh, brei pui kbiă mơ̆ng Y-Abimêlek leh anăn čuh phung mnuih hlăm ƀuôn Sičem leh anăn ƀuôn Bet-Milô, leh anăn brei pui kbiă mơ̆ng phung mnuih hlăm ƀuôn Sičem leh anăn mơ̆ng ƀuôn Bet-Milô leh anăn čuh Y-Abimêlek.” 21Leh anăn Y-Jôtham êran đuĕ nao kơ ƀuôn Bêr leh anăn dôk tinăn, kyua klei huĭ kơ ayŏng ñu Y-Abimêlek.
22Y-Abimêlek kiă kriê phung Israel tlâo thŭn. 23Leh anăn Aê Diê tiŏ nao sa mngăt myang jhat ti krah Y-Abimêlek hŏng phung êkei ƀuôn Sičem; leh anăn phung êkei ƀuôn Sičem ngă klei lhiăr kơ Y-Abimêlek; 24čiăng kơ klei ƀai diñu ngă kơ kjuh pluh čô anak êkei Y-Jêrubaal dưi mâo klei rŭ ênua leh anăn êrah digơ̆ lĕ kơ Y-Abimêlek ayŏng adei digơ̆, pô bi mdjiê digơ̆, leh anăn kơ phung êkei ƀuôn Sičem, phung bi ktang kngan ñu bi mdjiê phung ayŏng adei ñu. 25Phung êkei ƀuôn Sičem dưm mnuih kăp ngă kơ ñu ti dlông čŏng čư̆, leh anăn diñu tlĕ mnơ̆ng jih jang phung găn giăm diñu ktuê êlan anăn. Leh anăn arăng hưn klei anăn kơ Y-Amimêlek.
26Y-Gaal, anak êkei Y-Êbet nao kơ ƀuôn Sičem hŏng phung găp ñu; leh anăn phung êkei ƀuôn Sičem knang kơ ñu. 27Diñu kbiă nao kơ hma, pĕ boh kriăk ƀâo hlăm đang leh anăn djiêt digơ̆, ngă klei huă mnăm. Diñu mŭt hlăm sang yang diñu, diñu ƀơ̆ng leh anăn mnăm, leh anăn dlao wač kơ Y-Abimêlek. 28Leh anăn Y-Gaal, anak êkei Y-Êbet lač, “Hlei jing Y-Abimêlek, leh anăn hlei jing phung Sičem čiăng kơ drei mă bruă kơ ñu? Amâo djŏ hĕ ñu jing anak êkei Y-Jêrubaal, leh anăn Y-Sêbul jing kơiăng ñu? Mă bruă bĕ kơ phung mnuih Y-Hamôr ama Y-Sičem! Si ngă drei mă bruă kơ Y-Abimêlek? 29Čiăng kơ phung ƀuôn sang anei dôk ti gŭ klei kâo kiă kriê, snăn kâo srăng suôt Y-Abimêlek. Kâo srăng lač kơ Y-Abimêlek, ‘Lŏ thiăm bi lu kahan ih leh anăn kbiă hriê bĕ.’ ”
30Tơdah Y-Sêbul khua kơ ƀuôn anăn hmư̆ klei Y-Gaal, anak êkei Y-Êbet blŭ, ñu čuh ai ngêñ. 31Ñu tiŏ nao mnuih kơ Y-Abimêlek hŏng klei hgăm, lač, “Nĕ anei, Y-Gaal, anak êkei Y-Êbet leh anăn găp ñu hriê leh kơ ƀuôn Sičem, leh anăn diñu mčhur phung ƀuôn sang bi kdơ̆ng hŏng ih. 32Kyua anăn ară anei êjai mlam, brei ih leh anăn phung êkei dôk mbĭt hŏng ih dôk kăp diñu hlăm hma. 33Snăn, ti aguah leh yang hruê ƀlĕ, mdih pĭt ưm leh anăn êran phă ƀuôn. Leh anăn tơdah ñu leh anăn phung êkei mbĭt hŏng ñu kbiă čiăng bi kdơ̆ng hŏng ih, ih dưi ngă kơ diñu tui si găl.”
34Y-Abimêlek leh anăn jih jang mnuih mbĭt hŏng ñu kgŭ pĭt êjai mlam, leh anăn guôn kăp ngă kơ ƀuôn Sičem hŏng pă phung. 35Y-Gaal anak êkei Y-Êbet kbiă nao dôk ti anôk mŭt ƀăng jang ƀuôn. Y-Abimêlek leh anăn jih jang mnuih mbĭt hŏng ñu kgŭ mơ̆ng anôk kăp. 36Tơdah Y-Gaal ƀuh phung mnuih ñu lač kơ Y-Sêbul, “Duh dih, mnuih trŭn hriê mơ̆ng čŏng čư̆!” Y-Sêbul lač kơ ñu, “Ih ƀuh êyui čư̆ msĕ si mnuih.” 37Y-Gaal lŏ blŭ leh anăn lač, “Duh dih, mnuih trŭn mơ̆ng ti krah ping čư̆, leh anăn mâo sa phung mkăn hriê mơ̆ng anôk ana kyâo phung mdian.” 38Leh anăn Y-Sêbul lač kơ ñu, “Ti anôk ƀăng kƀông ih, pô lač, ‘Hlei pô Y-Abimêlek, čiăng kơ drei mă bruă kơ ñu?’ Amâo djŏ hĕ phung anei jing phung ih bi êmut? Nao bĕ ară anei bi blah hŏng diñu.” 39Y-Gaal nao ti anăp phung mnuih ƀuôn Sičem, leh anăn bi blah hŏng Y-Abimêlek. 40Y-Abimêlek tiŏ ñu, leh anăn ñu đuĕ ti anăp gơ̆; leh anăn lu mnuih lĕ buh êka truh ti anôk mŭt ƀăng jang. 41Y-Abimêlek dôk ti ƀuôn Arumah; leh anăn Y-Sêbul suôt Y-Gaal leh anăn phung găp ñu. Snăn diñu amâo lŏ dưi dôk ti ƀuôn Sičem ôh.
42Hruê mgi phung ƀuôn sang kbiă nao kơ hma. Arăng hưn kơ Y-Abimêlek. 43Ñu mă phung kahan ñu leh anăn bi mbha digơ̆ tlâo phung, leh anăn nao kăp ti hma. Ñu dlăng leh anăn ƀuh phung mnuih kbiă mơ̆ng ƀuôn. Ñu kgŭ ngă leh anăn bi mdjiê digơ̆. 44Y-Abimêlek leh anăn sa êpul kahan mbĭt hŏng ñu ksŭng phă anăp leh anăn dôk ti anôk mŭt ƀăng jang ƀuôn, êjai dua phung kahan ksŭng phă jih jang phung dôk hlăm hma, leh anăn bi mdjiê jih digơ̆. 45Y-Abimêlek bi blah hŏng ƀuôn anăn jih sa hruê. Ñu mă ƀuôn anăn leh anăn bi mdjiê phung mnuih dôk hlăm ƀuôn anăn; leh anăn bi rai jih ƀuôn leh anăn srai hra hlăm ƀuôn anăn.
46Tơdah jih jang phung mnuih dôk hlăm sang tum ƀuôn Sičem hmư̆ klei anăn, diñu mŭt dôk hlăm kđông kjăp sang yang Êl-Bêrit. 47Arăng hưn kơ Y-Abimêlek jih jang phung ƀuôn sang dôk hlăm sang tum ƀuôn Sičem bi kƀĭn leh mbĭt. 48Y-Abimêlek đĭ čư̆ Salmôn, ñu leh anăn jih jang mnuih mbĭt hŏng ñu. Y-Abimêlek mă djă sa ƀĕ jông, ñu kriă sa ƀĕ adhan kyâo, leh anăn mă klam ti mra ñu. Ñu lač kơ phung mnuih mbĭt hŏng ñu, “Ya diih ƀuh kâo ngă leh, brei diih ruăt ngă msĕ si kâo ngă leh.” 49Snăn grăp čô kriă sa ƀĕ leh anăn tui hlue Y-Abimêlek, leh anăn dưm ti kđông leh anăn čuh kđông mnuih dôk anăn hŏng pui. Snăn yơh jih jang mnuih dôk hlăm sang tum Sičem djiê sơăi, mâo hlăm brô sa êbâo čô êkei leh anăn mniê.
50Leh anăn Y-Abimêlek nao kơ ƀuôn Thêbes. Ñu ngă kđông čiăng bi blah hŏng ƀuôn Thêbes leh anăn mă gơ̆. 51Ƀiădah mâo hlăm ƀuôn anăn sa boh sang tum kjăp. Jih jang mnuih hlăm ƀuôn đuĕ dôk hlăm sang tum anăn, jih jang êkei mniê, leh anăn diñu kđăl hĕ ƀăng bhă, leh anăn diñu đĭ ti čuôr sang tum. 52Y-Abimêlek nao kơ sang tum anăn leh anăn bi blah hŏng gơ̆. Ñu nao giăm kơ ƀăng bhă čiăng čuh gơ̆ hŏng pui. 53 Leh anăn sa čô mniê bhĭr sa klŏ êsŭng ti boh kŏ Y-Abimêlek, leh anăn bi mčah klang kŏ ñu. 54Snăn ñu iêu hŏng klei ruăt sa čô êkei hlăk ai pô djă khil ñu, leh anăn lač kơ gơ̆, “Suê̆ đao gưm ih leh anăn bi mdjiê hĕ kâo, huĭ arăng lač kơ kâo ‘sa čô mniê bi mdjiê ñu.’ ” Êkei hlăk ai anăn tlŏ ñu leh anăn ñu djiê. 55Tơdah phung mnuih Israel ƀuh Y-Abimêlek djiê leh, diñu wĭt grăp čô kơ sang ñu pô. 56Snăn Aê Diê lŏ bi wĭt klei jhat Y-Abimêlek ngă leh kơ ama ñu êjai bi mdjiê kjuh pluh čô ayŏng adei ñu. 57Leh anăn msĕ mơh Aê Diê brei jih jang klei ƀai phung mnuih ƀuôn Sičem lŏ wĭt lĕ ti dlông boh kŏ diñu leh anăn truh kơ diñu tui si klei Y-Jôtham anak êkei Y-Jêrubaal tăm pah leh.