9

Lễ Thờ Phượng Sám Hối

1Vào ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân I-sơ-ra-ên họp lại với nhau để kiêng ăn, mặc vải thô, và rắc bụi đất trên đầu. 2Dân I-sơ-ra-ên tự tách biệt họ ra khỏi mọi người thuộc các chủng tộc khác. Họ đứng dậy xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ. 3Họ đứng tại chỗ của họ và đọc Luật Pháp của Ðức Chúa Trời của họ trong nửa buổi, còn nửa buổi kia họ xưng tội và thờ phượng CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ.
4Bấy giờ Ba-ni, Giê-sua, Cát-mi-ên, Sê-ba-ni-a, Bun-ni, Sê-rê-bi-a, Ba-ni, và Kê-na-ni đứng trên các bục dành cho người Lê-vi và lớn tiếng kêu cầu với CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ. 5Kế đó, những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bi-a, và Pê-tha-hi-a nói, “Hãy đứng dậy và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, Ðấng hiện hữu từ vô cùng trong quá khứ cho đến vô cùng trong tương lai.” Họ nói tiếp, “Chúc tụng danh vinh hiển của Ngài. Nguyện danh Ngài trỗi cao trên mọi lời chúc tụng và tôn vinh.”
6Bấy giờ Ê-xơ-ra nói, “Ôi, chỉ một mình Ngài là CHÚA, Ðấng có một không hai. Chính Ngài đã dựng nên các từng trời và trời của các từng trời, cùng toàn thể thiên binh; Ngài đã dựng nên trái đất và mọi vật trên đất, biển và mọi vật trong biển. Chính Ngài ban sự sống cho muôn loài vạn vật. Toàn thể thiên binh thiên sứ đều sấp mình xuống thờ phượng Ngài. 7Ngài là CHÚA, Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, và ban cho ông tên Áp-ra-ham. 8Ngài đã thấy lòng ông trung thành với Ngài, nên đã lập với ông một giao ước, ban cho dòng dõi ông đất của dân Ca-na-an, dân Hi-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Giê-bu-si, và dân Ghi-ga-si. Ngài đã giữ những lời hứa của Ngài, vì Ngài là Ðấng công chính. 9Ngài đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của tổ tiên chúng con ở Ai-cập; Ngài đã nghe tiếng khóc than của họ bên bờ Hồng Hải. 10Ngài đã sai các phép lạ và các dấu kỳ của Ngài đến đối phó với Pha-ra-ôn, với bầy tôi của vua ấy, và với toàn dân trong xứ đó, vì Ngài biết rõ dân Ai-cập đã đối xử với họ cách hống hách như thế nào. Ngài đã làm cho danh Ngài được lừng lẫy cho đến ngày nay. 11Ngài đã rẽ biển ra trước mặt họ, để họ có thể đi qua giữa lòng biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo họ, Ngài quăng chúng vào vực thẳm như một cục đá bị ném vào dòng nước mạnh. 12Ngoài ra, Ngài đã dẫn đưa họ ban ngày bằng một trụ mây và ban đêm bằng một trụ lửa để soi sáng cho họ trên con đường họ phải đi qua. 13Ngài cũng đã ngự xuống trên Núi Si-nai; từ trời Ngài đã phán dạy họ. Ngài đã ban cho họ các mạng lịnh chính trực, các luật pháp chân chính, cùng các luật lệ và các điều răn toàn hảo. 14Ngài đã tỏ cho họ biết ngày Sa-bát thánh của Ngài, và đã ban cho họ các điều răn, luật lệ, và luật pháp của Ngài qua Mô-sê tôi tớ Ngài. 15Ðể họ khỏi đói Ngài đã ban bánh từ trời xuống cho họ ăn; để họ khỏi khát Ngài đã khiến nước ngọt từ vầng đá tuôn ra cho họ uống. Ngài đã bảo họ đi vào chiếm lấy xứ mà Ngài đã thề sẽ ban cho họ. 16Nhưng họ, tổ tiên của chúng con, đã ngang ngược và cứng cổ; họ đã không vâng theo các điều răn của Ngài. 17Họ đã không vâng lời và cũng không nhớ gì đến các phép lạ Ngài đã làm ở giữa họ, nhưng đã cứng cổ, và trong cơn phản loạn họ đã lập một kẻ lãnh đạo để dẫn họ trở về làm nô lệ. Nhưng Ngài là Ðức Chúa Trời sẵn lòng tha thứ, khoan dung độ lượng, thương xót, chậm giận, và đầy dẫy tình thương. Ngài đã không bỏ họ, 18ngay cả khi họ đúc cho họ một pho tượng của một con bê và nói, ‘Ðây là thần của ngươi, đấng đã dẫn ngươi ra khỏi Ai-cập,’ và như thế họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 19Dù vậy, do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không bỏ họ bơ vơ trong đồng hoang. Ban ngày trụ mây dẫn đường họ vẫn không lìa khỏi họ; ban đêm trụ lửa soi sáng họ trên con đường họ phải đi vẫn không lìa khỏi họ. 20Ngài đã ban Thần Linh thiện hảo của Ngài để dạy dỗ họ. Ngài đã không giữ bánh man-na khỏi miệng họ; Ngài đã ban cho họ nước ngọt để họ không bị khát. 21Thật vậy, trong bốn mươi năm Ngài đã bảo tồn mạng sống của họ trong đồng hoang. Họ đã chẳng thiếu thốn gì. Quần áo của họ không mòn rách, đôi chân của họ không phù lên. 22Hơn thế nữa, Ngài đã ban các vương quốc và các nước cho họ. Họ đã chia các nước ấy cho nhau và không chừa lại một miền nào. Họ đã chiếm lấy xứ sở của Si-hôn vua của Hếch-bôn và xứ sở của Óc vua của Ba-san. 23Ngài đã làm cho dòng dõi họ đông như sao trên trời, và Ngài đã đem họ vào trong xứ mà Ngài đã bảo tổ tiên họ hãy vào và chiếm lấy. 24Vậy con cháu họ đã vào và chiếm lấy xứ. Ngài đã bắt các dân đang ở trong xứ phải khuất phục trước mặt họ, đó là các dân Ca-na-an. Ngài đã trao vào tay họ các vua và các dân trong xứ, để họ muốn làm gì với chúng tùy ý. 25Họ đã chiếm lấy những thành trì kiên cố và những vùng đất màu mỡ. Họ đã chiếm lấy những ngôi nhà chứa đầy mọi thứ tốt đẹp, những giếng nước đã đào sẵn, những vườn nho, những rẫy ô-liu, và những cây ăn trái nhiều vô kể. Vậy họ đã ăn, được no nê, và trở nên mập béo. Họ đã khoan khoái hưởng thụ mọi phước hạnh lớn lao mà Ngài ban cho. 26Nhưng họ đã không vâng lời và đã nổi loạn chống lại Ngài. Họ đã vứt bỏ luật pháp của Ngài ra sau lưng họ. Họ đã giết các tiên tri của Ngài, những người đã khuyên bảo họ hãy trở về với Ngài. Họ đã xúc phạm đến Ngài thật nặng nề. 27Vì thế Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng tha hồ áp bức họ. Tuy nhiên giữa cảnh gian lao khốn khổ họ đã kêu cầu với Ngài. Từ trời cao Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã ban cho họ những nhà giải phóng, để giải thoát họ ra khỏi tay của quân thù. 28Nhưng vừa khi họ được nghỉ ngơi, họ lại làm những việc ác nữa trước mặt Ngài. Do đó Ngài đã phó họ vào tay quân thù của họ để chúng cai trị họ. Bấy giờ họ mới chịu quay về và kêu cầu với Ngài nữa. Từ trời Ngài đã nghe tiếng van xin của họ. Ngài đã giải cứu họ nhiều lần vì lòng thương xót của Ngài. 29Ngài đã cảnh cáo họ phải trở lại và vâng giữ luật pháp Ngài, nhưng họ đã quá kiêu căng tự phụ và không vâng theo các điều răn Ngài. Họ cứ phạm tội và chống lại luật lệ Ngài, luật lệ mà ai vâng theo sẽ sống. Họ đã đưa ra đôi vai ương ngạnh, làm cho cổ họ ra cứng, và không chịu nghe lời Ngài. 30Dù vậy, Ngài đã nhẫn nại cưu mang họ suốt bao nhiêu năm dài. Ngài đã dùng Ðức Thánh Linh của Ngài để cảnh cáo họ về tội lỗi của họ qua các vị tiên tri của Ngài. Thế nhưng, họ vẫn một mực không chịu vâng lời. Do đó, Ngài đã phó họ cho các dân ngoại vốn cư ngụ trong xứ. 31Tuy nhiên, do lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài đã không tuyệt diệt họ hay bỏ rơi họ, vì Ngài là Ðức Chúa Trời khoan dung độ lượng và giàu lòng thương xót.
32Vậy, bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, Ðức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, và đáng sợ, Ðấng luôn giữ giao ước yêu thương vô tận của Ngài, xin đừng xem tất cả những khó khăn chúng con đang gánh chịu như một việc nhỏ trước mặt Ngài. Hoạn nạn lớn đã giáng trên chúng con, trên các vua, các quan, các tư tế, các tiên tri, các tổ tiên, và tất cả dân của chúng con từ ngày các vua A-sy-ri đánh bại chúng con đến ngày nay. 33Ngài luôn luôn công chính mỗi khi chúng con bị đoán phạt, vì Ngài đã đối xử với chúng con cách thành tín, còn chúng con thì cứ hành động cách gian tà đối với Ngài. 34Không có vua nào hay quan nào của chúng con, không có tư tế nào hay tổ tiên nào của chúng con đã vâng giữ luật pháp Ngài, hoặc làm theo các điều răn Ngài, hoặc quan tâm đến những lời cảnh cáo của Ngài đối với họ. 35Ngược lại, khi còn nắm giữ quyền hành trong vương quốc của họ, họ đã không thờ phượng Ngài. Họ đã hưởng biết bao phước hạnh lớn lao trong đất nước phì nhiêu và rộng lớn Ngài đã ban cho họ, nhưng họ không thờ phượng Ngài và cũng không lìa bỏ những việc làm xấu xa gian tà của họ. 36Cho nên, giờ đây chúng con phải trở thành những kẻ nô lệ; chúng con làm nô lệ ngay trên đất nước Ngài đã ban cho tổ tiên của chúng con để họ và con cháu của họ có thể hưởng những hoa quả dẫy đầy và của cải nhiều vô kể. Xin Ngài xem, chúng con đang làm những kẻ nô lệ! 37Vì cớ những tội lỗi của chúng con, các hoa lợi làm ra trên đất nước nầy đều phải đem nộp cho các vua ngoại bang mà Ngài đã lập lên cai trị chúng con. Họ có quyền trên thân thể chúng con; còn súc vật của chúng con họ muốn lấy lúc nào thì lấy. Chúng con thật đang ở giữa một cơn hoạn nạn lớn.”

Danh Sách Những Người Ký Giao Ước

38Vì tất cả những lẽ đó, chúng tôi đồng lòng với nhau lập một giao ước nghiêm túc và ghi rõ xuống trên giấy trắng mực đen. Trong văn kiện được đóng ấn ấy có tên những người lãnh đạo, những người Lê-vi, và các vị tư tế.

9

Ƀing Israel Pơhaih Tơlơi Soh Gơñu

1Ƀơi hrơi tal duapluh-pă̱ amăng blan anŭn mơ̆n, ƀing ană plei Israel pơƀut glaĭ hrŏm hơbĭt kŏm ƀơ̆ng huă laih anŭn čut hơô ao tâo laih anŭn pruai ƀruih lŏn ƀơi akŏ gơñu pô kiăng kơ pơrơđah kơ tơlơi ƀing gơñu rơngot hơning kơ tơlơi soh gơñu. 2Hlâo kơ anŭn, ƀing gơñu ăt hơmâo pơčơlah hĭ laih mơ̆n gơñu pô mơ̆ng abih bang ƀing mơnuih tuai. Ƀing gơñu dŏ dơ̆ng pơ anih anŭn laih anŭn čơdơ̆ng pơhaih hơdôm tơlơi soh gơñu wơ̆t hăng tơlơi soh ƀing ơi adon gơñu hơmâo ngă laih hlâo adih. 3Ƀing gơñu dŏ dơ̆ng pơ anih anŭn hơmư̆ tơdang arăng đŏk mơ̆ng Hơdrôm Hră Tơlơi Juăt Yahweh Ơi Adai ta kơplăh wăh klâo rơwang mông, laih anŭn ăt amăng klâo rơwang mông mơ̆n ƀing gơñu pơhaih tơlơi soh gơñu laih anŭn kơkuh pơpŭ kơ Yahweh Ơi Adai gơñu.
4Pơ anih anŭn ăt hơmâo sa adri̱ng kơyâo kơ ƀing Lêwi dŏ dơ̆ng ƀơi anih anŭn, anŭn jing Yêsua, Bani, Kadmiel, Sebanyah, Bunni, Sêrêbyah, Bani laih anŭn Kenani. Ƀing gơñu iâu laĭ kraih hăng Yahweh Ơi Adai gơñu.
5Ƀing Lêwi gah yŭ anai yơh iâu rai kiăng kơ kơkuh pơpŭ: Yêsua, Kadmiel, Bani, Hasabneiah, Sêrêbyah, Hôbiah, Sebanyah laih anŭn Pethahiah. Ƀing gơñu laĭ tui anai:
  “Tơgŭ bĕ laih anŭn bơni hơơč bĕ kơ Yahweh Ơi Adai gih;
   bơni hơơč bĕ kơ Ñu nanao hlŏng lar!
  Brơi bĕ kơ abih bang mơnuih bơni hơơč kơ anăn ang yang Ñu,
   Anăn Ñu jing prŏng hloh kơ tơlơi bơni hơơč ƀing ta ƀu dưi pơhiăp ƀôdah pơmĭn ôh.”

Tơlơi Iâu Laĭ Pơhaih Tơlơi Soh

  6Giŏng anŭn, ƀing ană plei Israel iâu laĭ tui anai:
  “Ih yơh, Ơ Yahweh hơi, kơnơ̆ng hơjăn Ih yơh jing Yahweh;
   Ih pơjing rai khul tal adai wơ̆t hăng khul pơtŭ pơ adai glông hloh adih.
  Ih pơjing rai lŏn tơnah ia rơsĭ laih anŭn abih bang mơnơ̆ng mơnuă amăng anŭn;
   Ih pha brơi tơlơi hơdip kơ abih bang.
  Abih bang khul pơtŭ hăng adai adih bon kơkuh pơpŭ kơ Ih.

  7“Ơ Yahweh Ơi Adai ăh, Ih yơh jing Pô ruah mă laih Abram
   laih anŭn dui ba gơ̆ tơbiă mơ̆ng plei Ur amăng čar Kaldi
   laih anŭn Ih pơplih hĭ anăn gơ̆ jing Abraham.
  8Ih ƀuh pran jua ñu dŏ tŏng ten hăng Ih
   laih anŭn Ih pơjing tơlơi pơgop hăng gơ̆.
  Ih ƀuăn rơ̆ng kiăng kơ pha brơi gơ̆ anih lŏn ƀing Kanaan,
   ƀing Hit laih anŭn ƀing Amôr,
   anih lŏn ƀing Periz, ƀing Yebus laih anŭn ƀing Girgas,
   kiăng kơ jing anih lŏn kơ ƀing kơnung djuai gơ̆ či hơdip.
  Ih hơmâo djă̱ pioh laih tơlơi Ih ƀuăn rơ̆ng, yuakơ Ih jing tơpă hơnơ̆ng yơh.

  9“Ih ƀuh laih ƀing ơi adon gơmơi gleh tơnap amăng čar Êjip,
   laih anŭn Ih hơmư̆ laih tơlơi ƀing gơ̆ iâu kwưh kơ tơlơi djru ƀơi ia rơsĭ Mriah.
  10Ih brơi rai khul gru kơnăl mơsêh mơyang pơkơdơ̆ng glaĭ hăng pơtao Pharaoh,
   pơkơdơ̆ng glaĭ hăng abih ƀing khua moa ñu laih anŭn hăng abih ƀing ană plei amăng anih lŏn anŭn,
   yuakơ Ih thâo laih hiư̆m ƀing gơñu hơmâo kơtư̆ juă laih kơ ƀing ană plei Ih.
  Ih dưi hĭ laih, laih anŭn Anăn Ih ăt dŏ hing ang truh kơ ră anai.
  11Ih pơkăh pơpha laih ia rơsĭ jing jơlan rơbat kơ ƀing ană plei Ih Israel,
   laih anŭn dui ba ƀing gơ̆ găn ƀơi lŏn thu.
  Samơ̆ Ih pơƀlŭng pơdjai hĭ ƀing kiăng kiaŏ pơrai hĭ ƀing gơ̆ amăng anih ia dơlăm,
   hrup hăng boh pơtâo kơdram trŭn amăng ia rơsĭ păh pung kơtang.
  12Tơdang hrơi Ih dui ba laih ƀing gơ̆ hăng sa gơ̆ng kơthul
   laih anŭn tơdang mlam Ih dui ba ƀing gơ̆ hăng sa gơ̆ng apui
   kiăng brơi kơ ƀing gơ̆ tơlơi bơngač ƀơi jơlan ƀing gơ̆ rơbat.

  13“Ƀơi čư̆ Sinai yơh Ih trŭn rai mơ̆ng adai adih laih anŭn pơhiăp hăng ƀing ană plei Ih.
  Ih pha brơi laih kơ ƀing gơ̆ khul tơlơi phiăn tơpă hơnơ̆ng laih anŭn khul tơlơi juăt djơ̆
   wơ̆t hăng khul tơlơi pơtă pơtăn laih anŭn tơlơi pơđar hiam klă.
  14Ih pơtô brơi laih kơ ƀing gơ̆ djă̱ pioh hrơi Saƀat rơgoh hiam
   laih anŭn Ih brơi kơ ƀing gơ̆ hơdôm tơlơi pơđar, tơlơi pơtă pơtăn laih anŭn tơlơi juăt Ih
   mơ̆ng ding kơna Ih Môseh yơh.
  15Tơdang ƀing gơ̆ ư̆ rơpa, Ih pha brơi kơ ƀing gơ̆ gơnam ƀơ̆ng mơ̆ng adai adih,
   laih anŭn tơdang ƀing gơ̆ mơhao ia, Ih brơi kơ ƀing gơ̆ ia mơñum mơ̆ng boh pơtâo prŏng.
  Ih pơtă laih kơ ƀing gơ̆ brơi mŭt nao tŭ mă anih lŏn
   jing anih lŏn Ih hơmâo ƀuăn brơi laih kiăng pha brơi kơ ƀing gơ̆.

  16“Samơ̆ ƀing ơi adon gơmơi anŭn jing hĭ pơgao ang khăng akŏ
   laih anŭn ƀing gơñu hơngah ƀu kiăng tui gưt ôh hơdôm tơlơi Ih pơđar.
  17Ƀing gơñu hơngah ƀu kiăng gưt tui ôh
   laih anŭn wơr bĭt hĭ abih bang tơlơi mơsêh mơyang Ih hơmâo ngă laih kiăng djru kơ ƀing gơñu.
  Yuakơ ƀing gơñu pơgao ang khăng akŏ yơh ƀing gơñu ruah laih khua ba akŏ kơ gơñu pô
   kiăng kơ wơ̆t glaĭ ngă hlŭn amăng lŏn čar Êjip dơ̆ng.
  Samơ̆ Ih jing Ơi Adai thâo pap brơi,
   jing Pô thâo pap, glưh pran jua laih anŭn akaih hil.
  Tơlơi khăp pap Ih jing prŏng prin laih anŭn Ih ƀu lui raih hĭ ƀing gơ̆ ôh.
  18Ƀing arăng pơkra rai laih kơ ƀing gơ̆ sa boh rup trah ană rơmô
   laih anŭn arăng laĭ, ‘Rup trah anai yơh jing yang gih,
   jing pô ba tơbiă laih ƀing gih mơ̆ng lŏn čar Êjip!’
  Ơ Yahweh hơi, ƀing gơñu ƀrưh mơhiăh hĭ kơ Ih biă mă.

  19“Samơ̆ yuakơ tơlơi glưh pran jua Ih prŏng prin yơh,
   Ih ƀu lui raih hĭ ôh ƀing gơñu amăng tơdron ha̱r.
  Tui anŭn, Ih ƀu mă pơđuaĭ hĭ ôh gơ̆ng kơthul kiăng dui ba ƀing gơñu tơdang hrơi
   kŏn mă pơđuaĭ hĭ lơi gơ̆ng apui kiăng pơčrang brơi jơlan rơbat tơdang mlam.
  20Ih pha brơi Yang Bơngăt Hiam Ih kiăng kơ pơtă brơi kơ ƀing gơ̆ hơdôm tơlơi khŏm ngă tui;
   Ih čem rong ƀing gơ̆ hăng tơpŭng mana laih anŭn pha brơi kơ ƀing gơ̆ ia kiăng kơ mơñum nanao.
  21Abih pă̱pluh thŭn amăng tơdron ha̱r
   Ih pha brơi abih bang tơlơi ƀing gơ̆ kơƀah kiăng.
  Ao buh ƀing gơ̆ ƀu so phŏ hĭ ôh,
   laih anŭn tơkai ƀing gơ̆ kŏn brăh đĭ ruă lơi.

  22“Ih jao brơi laih kơ ƀing gơ̆ dưi blah juă hĭ lu lŏn čar laih anŭn ƀing kơnung djuai mơnuih,
   jing lŏn čar jĕ guai lŏn kơ ƀing gơ̆ pô.
  Ƀing gơñu blah dưi hĭ laih kơ pơtao Sihôn jing pơtao lŏn čar Hesbôn
   laih anŭn kơ pơtao Ôg jing pơtao lŏn čar Basan.
  23Ih pơlar rai laih ƀing ană tơčô ƀing gơ̆ lu kar hăng khul pơtŭ amăng adai adih,
   laih anŭn Ih brơi laih kơ ƀing ană tơčô anŭn dưi mŭt dŏ hơdip amăng anih lŏn
   jing anih Ih hơmâo pơtă laih kơ ƀing ơi adon gơñu kiăng kơ mŭt mă tŭ.
  24Ƀing gơñu mŭt nao blah mă tŭ laih anih lŏn Kanaan;
   Ih yơh hơmâo dưi hĭ laih kơ ƀing hơdip amăng anih lŏn Kanaan anŭn.
  Ih pha brơi laih kơ ƀing ană plei Ih tơlơi dưi tui hăng tơlơi ƀing gơ̆ kiăng kơ ngă
   kơ ƀing pơtao laih anŭn kơ ƀing ană plei amăng anih lŏn Kanaan anŭn yơh.
  25Ƀing ană plei Ih blah mă hĭ khul plei kơđông,
   anih lŏn kơmơ̆k, khul sang bă hăng mŭk dram,
   khul ia dơmŭn arăng klơi laih,
   khul đang kơyâo ôliwơ, đang boh kơƀâo laih anŭn lu kơyâo boh čroh pơkŏn.
  Ƀing gơñu ƀơ̆ng huă trơi hrăp yơh kơ hơget gơnam ƀơ̆ng ƀing gơñu kiăng tơl ƀing gơñu rơmŏng biă mă.
  Ƀing gơñu mơak mă tŭ abih bang gơnam mơyŭn hiam Ih pha brơi laih kơ ƀing gơñu yơh.

  26“Samơ̆ ƀing ană plei Ih anŭn tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Ih laih anŭn ƀu gưt tui Ih ôh.
  Ƀing gơñu hơngah đuaĭ ataih hĭ mơ̆ng Tơlơi Juăt Ih
   laih anŭn pơdjai hĭ laih ƀing pô pơala Ih,
   jing ƀing rai pơkơđiăng brơi kơ ƀing gơñu kiăng kơ wơ̆t glaĭ pơ Ih.
  Ƀing gơñu ƀrưh mơhiăh hĭ kơ Ih biă mă.
  27Tui anŭn yơh, Ih brơi kơ ƀing rŏh ayăt gơñu blah juă hĭ ƀing gơñu laih anŭn kơtư̆ juă ƀing gơñu.
  Amăng tơlơi tơnap tap gơñu anŭn yơh, ƀing gơñu iâu kwưh Ih kơ tơlơi djru,
   laih anŭn mơ̆ng adai adih yơh Ih laĭ glaĭ kơ ƀing gơñu.
  Amăng tơlơi glưh pran jua prŏng prin Ih yơh, Ih brơi rai kơ ƀing gơñu ƀing khua ba akŏ
   kiăng pơklaih hĭ ƀing gơñu mơ̆ng ƀing rŏh ayăt gơñu.

  28“Samơ̆ tơdang ƀing gơñu rơnŭk rơnua laih, ƀing gơñu čơdơ̆ng ngă soh dơ̆ng ƀơi anăp Ih,
   laih anŭn dơ̆ng Ih brơi ƀing rŏh ayăt gơñu blah juă git gai hĭ ƀing gơñu.
  Samơ̆ tơdang ƀing gơñu pơhaih tơlơi soh laih anŭn iâu kwưh Ih kiăng pơklaih hĭ ƀing gơñu dơ̆ng,
   Ih hơmư̆ gơñu mơ̆ng adai adih
   laih anŭn Ih pơklaih hĭ ƀing gơñu nanao yuakơ Ih hơmâo tơlơi glưh pran jua prŏng prin.

  29“Ih hơmâo pơkơđiăng laih ƀing gơñu kiăng kơ wơ̆t glaĭ gưt tui hơdôm tơlơi Ih pơtô laĭ,
   samơ̆ ƀing gơñu ngă pơgao ang hăng hơngah ƀu tui gưt ôh hơdôm tơlơi Ih pơđar laih anŭn ngă soh pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơlơi phiăn Ih,
   wơ̆t tơdah ƀing gơñu thâo hluh: Ngă tui Tơlơi Juăt Ih jing jơlan kơ tơlơi hơdip yơh.
  Samơ̆ ƀing gơñu khăng akŏ laih anŭn kơpĭl hơngah hĭ ƀu kiăng gưt tui Ih ôh.
  30Amăng lu thŭn laih Ih ư̆ añ hăng ƀing gơñu nanao.
  Ih brơi Yang Bơngăt Hiam Ih pơkơđiăng ƀing gơñu mơ̆ng ƀing pô pơala,
   samơ̆ ƀing ană plei Ih ƀu kiăng pơđi̱ng tơngia hơmư̆ ôh.
  Tui anŭn, Ih jao hĭ ƀing gơñu kơ ƀing kơnung djuai lŏn čar pơkŏn git gai gơñu.
  31Samơ̆ wơ̆t tơdah tui anŭn, yuakơ tơlơi glưh pran jua Ih jing prŏng prin yơh,
   Ih ƀu lui raih hĭ ƀing gơñu ƀôdah pơrai hĭ ƀing gơñu ôh.
  Ih yơh jing Ơi Adai thâo pap laih anŭn thâo khăp pap.

  32“Ơ Ơi Adai, Ơi Adai gơmơi hơi, Ih jing Pô prŏng prin biă mă!
  Ih jing Pô ƀing gơmơi huĭ pơpŭ kri̱p yi̱p laih anŭn dưi mơyang biă mă!
  Ih tŏng ten djă̱ pioh tơlơi ƀuăn rơ̆ng pơgop pơlir Ih.
  Čơdơ̆ng mơ̆ng rơnŭk tơdang ƀing pơtao lŏn čar Assiria kơtư̆ juă ƀing gơmơi,
   hlŏng truh kơ tă anai, ƀing gơmơi tŭ tơlơi gleh tơnap biă mă!
  Ƀing pơtao gơmơi, ƀing khua djă̱ akŏ gơmơi, ƀing khua ngă yang laih anŭn ƀing pô pơala gơmơi,
   ƀing ơi adon gơmơi laih anŭn abih bang ƀing ană plei gơmơi hơmâo tŭ mă laih tơlơi gleh tơnap.
  Rơkâo kơ Ih anăm wơr hĭ ôh kơ tơlơi ƀing gơmơi hơmâo tŭ tơlơi gleh tơnap laih!
  33Ih hơmâo ngă laih tơlơi djơ̆ găl kiăng pơkơhma̱l hĭ ƀing gơmơi;
   Ih yơh jing Pô tŏng ten wơ̆t tơdah ƀing gơmơi hơmâo ngă sat ƀai laih.
  34Ƀing ơi adon gơmơi, ƀing pơtao gơmơi, ƀing khua djă̱ akŏ gơmơi laih anŭn ƀing khua ngă yang gơmơi
   ƀu ngă tui Tơlơi Juăt Ih ôh.
  Ƀing gơñu hơngah ƀu kiăng pơđi̱ng tơngia hơmư̆ tui ôh hơdôm tơlơi pơđar laih anŭn tơlơi pơkơđiăng Ih.
  35Tơdang ƀing ană plei Ih hơdip amăng anih lŏn gơñu pô
   Ih brơi tơlơi mơyŭn hiam kơ ƀing gơñu,
   Ih brơi ƀing pơtao wai lăng ƀing gơñu
   laih anŭn pha brơi anih lŏn kơmơ̆k hiam kơ ƀing gơñu
  samơ̆ ƀing gơñu hơngah ƀu kiăng đuaĭ ataih hĭ ôh mơ̆ng tơlơi sat ƀai
   laih anŭn kŏn kiăng kơkuh pơpŭ kơ Ih lơi.

  36“Samơ̆ ră anai, ƀing gơmơi jing hĭ hlŭn mơnă amăng anih lŏn Ih pha brơi laih hlâo adih kơ ƀing ơi adon gơmơi.
  Anih lŏn anŭn jing anih lŏn kơmơ̆k hiam pha brơi kơ ƀing gơñu gơnam ƀơ̆ng hiam yơh
   samơ̆ ƀing gơmơi jing hĭ hlŭn mơnă amăng anih lŏn anŭn!
  37Hơdôm gơnam tăm anih lŏn anai pơtơbiă rai le̱ng kơ nao pơ ƀing pơtao,
   jing ƀing Ih hơmâo jao laih kiăng kơ git gai ƀing gơmơi yuakơ ƀing gơmơi ngă soh laih.
  Ƀing gơñu ngă kơ ƀing gơmơi wơ̆t hăng hlô mơnơ̆ng gơmơi tui hăng tơlơi gơñu kiăng yơh.
  Tui anŭn, ƀing gơmơi rŭng răng biă mă yơh!”

Ƀing Ană Plei Israel Čih Tơlơi Pơgop

38“Yuakơ abih bang hơdôm tơlơi anŭn hơmâo truh laih, tui anŭn ƀing ta, jing ƀing ană plei Israel, čih sa tơlơi pơgop ƀơi hră, laih anŭn ƀing khua djă̱ akŏ, ƀing Lêwi laih anŭn ƀing khua ngă yang ta yơh kơđŏm gru kơnăl kơđŏm gơñu pô ƀơi hră anŭn.”