9

Exala tej lus thov

1Thaum dhau tej haujlwm no lawm, cov thawj los cuag kuv thiab hais tias, “Cov neeg Yixayee thiab cov pov thawj thiab cov Levi tsis tau muab lawv cais ntawm tej neeg hauv lwm lub tebchaws thiab ntawm tej neeg ntawd tej kev qias vuab tsuab, yog ntawm cov Khana‑as, cov Hithai, cov Pelixai, cov Yenpu, cov Asmoo, cov Mau‑a, cov Iyi thiab cov Amaulai. 2Rau qhov lawv yuav tej neeg ntawd tej ntxhais los ua lawv pojniam thiab ua lawv tej tub pojniam. Yog li no haiv neeg uas dawb huv no thiaj li txuam tsoov tag rau hauv tej tebchaws ntawd cov neeg. Qhov uas fav xeeb no, cov nom tswv thiab cov thawj txhais tes coj kev ua ntej.” 3Thaum kuv hnov li no kuv thiaj dua rhe kuv lub tsho thiab lub tsho ntev, thiab dob kuv tej plaubhau thiab tej hwj txwv, thiab kuv zaum poob siab tag. 4Ces txhua tus uas paub ntshai Yixayee tus Vajtswv tej lus tuaj nyob vij kuv vim yog tim cov uas poob tebchaws rov qab los tej kev fav xeeb, mas kuv zaum poob siab tag mus txog lub sijhawm uas ua kevcai xyeem thaum yuav tsaus ntuj.
5Lub sijhawm uas ua kevcai xyeem thaum yuav tsaus ntuj kuv sawv tsees ntawm qhov uas yoo mov uas muab lub tsho thiab lub tsho ntev dua tag, thiab kuv txhos caug ntua tsa tes rau Yawmsaub uas yog kuv tus Vajtswv, 6thiab hais tias,
 “Au kuv tus Vajtswv, kuv poob ntsej muag thiab txaj muag tsa lub ntsej muag saib rau koj uas yog kuv tus Vajtswv, rau qhov peb tej kev txhaum siab dhau peb lub taubhau thiab peb lub txim nce mus nto saum ntuj.
7Peb ua txhaum muaj txim loj txij thaum peb tej poj koob yawm txwv los txog niaj hnub nimno. Vim peb ua txhaum, mas peb thiab peb tej vajntxwv thiab peb cov pov thawj thiaj raug muab cob rau hauv lwm tebchaws tej vajntxwv txhais tes, thiab cob rau hniav ntaj thiab raug ntes raug lws thiab poob ntsej muag kawg yam li niaj hnub nimno. 8Tiamsis nimno Yawmsaub uas yog peb tus Vajtswv ua nws txojkev hlub tshwm los ib nyuag ntu, nws thiaj tseg peb ib txhia tshuav nyob thiab pub peb nyob ruaj hauv nws lub chaw dawb huv, xwv Vajtswv thiaj ua rau peb qhov muag kaj tuaj thiab pub rau peb rov muaj zog mentsis hauv txojkev ua qhev tuaj. 9Peb yeej raug ua qhev, tiamsis peb tus Vajtswv tsis muab peb pov tseg rau hauv txojkev ua qhev mus li. Nws ua nws txojkev hlub tshwm rau peb tab meeg Pawxia tej vajntxwv, thiab pub peb rov muaj zog tsim tsa peb tus Vajtswv lub tuam tsev thiab kho tej uas pob tag thiab pub muaj ntsa loog tiv thaiv peb hauv Yuda thiab Yeluxalees.
10“Au peb tus Vajtswv, dhau tej no lawm nimno peb yuav hais li cas? Vim yog peb tau tso koj tej lus nkaw tseg lawm, 11yog tej lus uas koj tau kom koj cov tub qhe uas cev koj lus hais tias, ‘Lub tebchaws uas nej tabtom txeem mus ua nej tug ntawd yog lub tebchaws uas qias tsis huv vim tej kev qias puas tsuas uas cov neeg hauv lub tebchaws ua. Tej kev qias vuab tsuab uas lawv ua puv nkaus sab no mus thoob plaws rau sab tim ub ua rau lub tebchaws qias tsis huv lawm. 12Yog li no nej tsis txhob muab nej tej ntxhais qua rau lawv tej tub, tsis txhob yuav lawv tej ntxhais rau nej tej tub, thiab tsis txhob nrog lawv sib raug zoo thiab txhawb lawv vam meej, xwv nej thiaj yuav muaj zog thiab noj tej qoob loo zoo zoo hauv lub tebchaws no thiab muab lub tebchaws ua qub txeeg qub teg rau nej cov menyuam mus ib txhis.’ 13Txawm yog txhua yam uas peb raug yog tim peb tej kev phem loj thiab peb lub txim loj kawg los peb tus Vajtswv tseem rau txim rau peb sib dua lub txim uas tsim nyog peb raug, thiab tau pub peb ib cov tshuav nyob yam li no. 14Mas peb tseem yuav rhuav koj tej lus nkaw dua thiab nrog cov neeg uas ua tej kev qias vuab tsuab no sib yuav lov? Koj yuav tsis chim rau peb mus txog thaum koj ua rau peb puam tsuaj tag tsis tshuav ib tug nyob thiab tsis muaj ib tug dim li lov? 15Au Yawmsaub uas yog cov Yixayee tus Vajtswv, koj yog tus ncaj ncees. Peb ib co tshuav nyob thiab dim los txog niaj hnub nimno. Saib maj, tsis muaj ib tug muaj txim uas nyob tau ntawm koj lub xubntiag los peb tseem muaj txim nyob ntawm koj xubntiag.”

9

E-xơ-ra-buồn-rầu vì cớ dân Y-sơ-ra-ên cưới người ngoại. – Bài cầu nguyện người

1 Sau các việc đó, các quan trưởng đến gần nói với ta rằng: Dân Y-sơ-ra-ên, những thầy tế lễ, và người Lê-vi chẳng có phân rẽ với các dân tộc của xứ này; họ bắt chước theo sự gớm ghiếc của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, dân Am-môn, dân Mô-áp, dân Ê-díp-tô, và dân A-mô-rít. 2 Vì chúng có lấy những con gái họ làm vợ của mình, và làm vợ con trai mình. Dòng dõi thánh đã pha lộn như vậy với dân tộc của các xứ này; thật các trưởng và quan cai vốn là kẻ đầu phạm tội dường ấy.
3 Khi ta nghe các lời ấy, ta bèn xé áo trong và áo tơi mình, nhổ tóc đầu và lông râu, rồi ngồi buồn bã. 4 Những người vâng kỉnh các lời phán Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đều hiệp lại chung quanh ta, sợ hãi về tội trọng của các người đã bị bắt làm phu tù được về có phạm; còn ta ngồi kinh hoảng cho đến khi dâng của lễ buổi chiều.
5 Đến giờ dâng của lễ buổi chiều, ta đứng dậy khỏi nơi khổ nhục mình, áo trong và áo tơi ta xé rách; ta quì gối xuống, giơ tay ra hướng về Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta, 6 mà thưa với Ngài rằng: Ồ, Đức Chúa Trời tôi! tôi hổ ngươi thẹn mặt, chẳng dám ngước mặt lên Ngài, là Đức Chúa Trời tôi; vì gian ác chúng tôi đã thêm nhiều quá đầu chúng tôi, và tội chúng tôi cao lớn tận trời. 7 Từ ngày tổ phụ chúng tôi cho đến ngày nay, chúng tôi đã cực cùng phạm tội; vì cớ tội ác mình, nên chúng tôi, các vua chúng tôi, và những thầy tế lễ chúng tôi, đều bị phó vào tay các vua những xứ, bị gươm, bị bắt làm phu tù, bị cướp giựt, và bị sỉ nhục, y như điều đó đã có ngày nay. 8 Song bây giờ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi tạm làm ơn cho chúng tôi, để một phần dư lại của chúng tôi thoát khỏi, và ban cho chúng tôi một cái đền ở trong chỗ thánh nầy; hầu cho Đức Chúa Trời chúng tôi soi sáng con mắt chúng tôi và khiến cho chúng tôi ở giữa sự nô lệ mình được dấy lên một chút. 9 Vì chúng tôi vốn là kẻ nô lệ; nhưng Đức Chúa Trời của chúng tôi không từ bỏ chúng tôi trong sự nô lệ chúng tôi. Ngài đã khiến cho chúng tôi được ơn trước mặt các vua Phe-rơ-sơ, hầu ban cho chúng tôi sự dấy lên đặng cất lại đền của Đức Chúa Trời chúng tôi và xây lên lại những nơi hư nát của nó, cùng ban cho chúng tôi một nơi ở tại trong xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem. 10 Bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời chúng tôi ôi! sau những điều đó, chúng tôi sẽ nói làm sao? Vì chúng tôi đã lìa bỏ những điều răn. 11 Ngài đã cậy các tiên tri, là tôi tớ Ngài, mà phán dạy chúng tôi, rằng: Xứ mà các ngươi sẽ vào đặng nhận lấy đó, là một xứ bị ô uế tại sự ô uế của các dân tộc nó, và tại sự gớm ghiếc của chúng nó đã làm cho xứ ấy đầy dẫy từ đầu nầy chí đầu kia. 12 Vì vậy, cho nên chớ gả con gái các ngươi cho con trai chúng nó, và đừng cưới con gái họ cho con trai của các ngươi; chớ hề tìm kiếm sự thạnh lợi hoặc sự bình an của chúng nó, để các ngươi trở nên mạnh dạn, ăn hoa lợi của xứ, và để nó lại cho các con trai mình làm cơ nghiệp đời đời. 13 Vả, sau những tai họa đã giáng trên chúng tôi, tại các sự hành ác và tội trọng của chúng tôi, --- mà lại, hỡi Đức Chúa Trời của chúng tôi ôi! thật Chúa chẳng có phạt chúng tôi cho đáng như tội chúng tôi, và đã ban cho chúng tôi được phần sót lại dường này; --- 14 vậy có lẽ nào chúng tôi lại phạm các điều răn của Chúa nữa, kết bạn với các dân tộc vẫn làm những sự gớm ghiếc nầy sao? Vậy thì cơn thạnh nộ Chúa há sẽ chẳng nổi lên cùng chúng tôi, tiêu diệt chúng tôi, đến đỗi chẳng còn phần sót lại, cũng không ai thoát khỏi hay sao? 15 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Chúa vốn là công bình; còn chúng tôi, chỉ một số ít người được thoát khỏi, như đã thấy ngày nay: nầy chúng tôi ở trước mặt Chúa, mắc tội lỗi nhiều; nhân đó, chẳng ai có thể đứng nổi trước mặt Ngài.