4

Bunuyh Gŭ Tâm Nau Vay Jêh Ri Tâm Nau Yô̆

1Gâp lah, dôl nơm dơi ndơn drăp jêng kon se, păng mâu jêng êng êng đah dĭk ôh, nđâp tơlah păng jêng kôranh ma lĕ rngôch drăp păng. 2Păng gŭ tâm dâng nơm n'gang păng jêh ri nơm chiă uănh păng, kŏ tât nar mbơ̆ păng tâm nal jêh. 3He jêng nâm bu pô nây lĕ, dôl he hôm jê̆ he jêng dĭk ma nau ta neh ntu mơng ƀư jêh. 4Ƀiălah tơlah tât jêh nar tâm nal, Brah Ndu njuăl Kon Păng, ăn ma du huê bu ur deh, deh tâm dâng nau vay, 5gay ma tâm chuai lĕ phung gŭ tâm dâng nau vay, pôri he dơi jêng kon bu rong an. 6Jêh ri khân may jêng kon, Brah Ndu njuăl tâm nuih n'hâm he Brah Huêng Ueh Kon Păng, lah pô aơ: "Abba! Mbơ̆!" 7Pô nây yơh khân may mâu hôm jêng dĭk ôh, ƀiălah jêng kon, jêh ri tơlah khân may jêng kon, khân may dơi jêng phung dơi ndơn drăp Brah Ndu.
8Kăl e ri khân may mâu gĭt năl Brah Ndu ôh, khân may jêng dĭk ma brah mâu khlay ôh; 9ƀiălah aƀaơ khân may gĭt năl jêh Brah Ndu; mâu lah nanê̆ ngăn Brah Ndu gĭt năl jêh khân may, mâm ƀư khân may ŭch plơ̆ sĭt ma nau vay rdja jêh ri o ach jêh ri ŭch plơ̆ jêng dĭk? 10Khân may săch nar, khay, yan jêh ri năm. 11Gâp klach kan gâp pah jêng dơm dam jêh tâm phung khân may.

Phung Galati Rgâl Nau Mĭn Khân Păng

12Hơi oh nâu, gâp vơh vơl ma khân may ăn khân may jêng nâm bu gâp, yorlah gâp jêng nâm bu khân may. Khân may mâu ƀư mhĭk ma gâp ôh; 13ƀiălah khân may gĭt jêh yorlah gâp geh nau rdja tâm săk jăn gâp mbơh jêh nau mhe mhan ueh ma khân may rnôk lor ri, 14jêh ri săk jăn gâp rơia jêng nau rlong uănh ma khân may kđôi lĕ, khân may mâu mưch, mâu dun gâp ôh, ƀiălah khân may rom gâp nâm bu du huê oh mon ueh Brah Ndu ngăn, nâm bu khân may rom Yêsu Krist nơm. 15Mbah ntŭk nau ueh maak khân may geh? Yorlah gâp dơi mbơh ma khân may pô aơ, rnôk nây, tơlah dơi kŏ bơi ma khân may vĕk măt khân may nơm ăn ma gâp. 16Ƀiălah mâm ƀư gâp jêng rlăng tay đah khân may yorlah gâp nti nau ngăn ma khân may? 17Phung nây geh nau duh nđơr yor khân may, ƀiălah mâu di khân păng geh nuih n'hâm ueh ôh; ƀiălah khân păng ŭch khân may chalơi hên, jêh ri duh nđơr đah khân păng. 18Ueh lĕ geh nuih n'hâm duh nđơr ma nau ueh. Ăn khân may geh ƀaƀơ, mâu di knŏng dôl gâp gŭ ndrel ma khân may ôh. 19Hơi phung kon jê̆ gâp, yor phung khân may gâp dơn nau rêh ni tâm ban ma nau ji deh kon, kŏ nau Brah Krist jêng tâm khân may! 20Gâp ŭch gŭ ndrel ma khân may jêh ri tâm rgâl nau gâp ngơi, yorlah gâp gŭ rngot uh ah yor khân may.

H'Agar Jêh Ri H'Sara Tâm Ntĭt Ma Bar Ntil Nau Tâm Rnglăp

21Lah hom ma gâp, hơi phung ŭch gŭ tâm dâng nau vay, khân may mâu mâp tăng nau vay hĕ? 22Yorlah geh nau nchih jêh ma Y-Abraham geh bar hê kon bu klâu, du huê jêng kon bu ur dĭk bu, du huê jêng kon bu ur kon me. 23Kon bu ur dĭk bu deh tĭng nâm nglay săk, ƀiălah kon bu ur kon me deh tĭng nâm nau ton jêh. 24Lĕ bar hê nây geh nau hôr pô aơ; bar hê bu ur nây jêng nau tâm ntĭt ma bar nau tâm rnglăp. Du nau tâm rnglăp tă bơh yôk Sinai, deh ma kon ăn jêng dĭk; păng nây jêng H'Agar, 25H'Agar nâm bu ntĭt yôk Sinai tâm n'gor Arabi, nâm bu ƀon Yêrusalem aƀaơ aơ, gŭ jêng dĭk ndrel ma kon păng. 26Ƀiălah ƀon Yêrusalem ta klơ jêng kon me, jêh ri păng jêng me he. 27Yorlah geh nau nchih jêh pô aơ:
 "Maak hom! Hơi bu ur ndrô gâng.
 Bu ur mâu mâp deh kon Răm maak hom ay jêh ri gơm đah Hom.
 Nơm mâu mâp ji nau n'gơch nkeng ôh.
 Yorlah phung bơh kon tă bơh bu ur bu dun lơi mra jêng âk lơn ma kon bơh bu ur geh sai".
28Hơi oh nâu, he jêng tâm ban ma Y-Isăk, jêng kon bơh nau ton. 29Ƀiălah tâm ban ma rnôk nây, kon bu deh tĭng nâm nglay săk ƀư mhĭk ma nơm bu deh tĭng nâm Brah Huêng Ueh, aƀaơ ăt tâm ban pô nây lĕ. 30Moh nau nchih lah jêh?" Mprơh lơi bu ur dĭk bu jêh ri kon bu klâu păng; yorlah ma kon bu ur dĭk bu mâu dơi ndơn drăp ndrel ma kon bu ur kon me ôh". 31Pôri, hơi phung oh nâu, he mâu jêng kon bu ur dĭk bu ôh, ƀiălah ăn jêng kon bu ur kon me.

4

1,2Anh em nên nhớ, khi người thừa kế còn thơ ấu, dù có quyền làm chủ sản nghiệp, nhưng vẫn phải ở dưới quyền người giám hộ và quản gia — chẳng khác gì người nô lệ — cho đến tuổi thành niên.
3Chúng ta cũng thế: trước khi Chúa Cứu Thế đến, chúng ta phải làm nô lệ cho luật pháp và tục lệ cổ truyền vì tưởng những thứ ấy có thể cứu rỗi chúng ta. 4Nhưng đúng kỳ hạn, Thượng Đế sai Con Ngài xuống trần gian, do một người nữ sinh ra trong một xã hội bị luật pháp trói buộc, 5để giải phóng những người làm nô lệ của luật pháp, và cho họ quyền làm con Thượng Đế. 6Vì chúng ta là con Thượng Đế nên Ngài đã sai Thánh Linh của Chúa Cứu Thế ngự vào lòng chúng ta, giúp chúng ta gọi Thượng Đế bằng Cha. 7Như thế, chúng ta không còn làm nô lệ nữa, nhưng làm con Thượng Đế. Đã là con, chúng ta cũng được thừa hưởng cơ nghiệp của Thượng Đế.

Phao-lô lo ngại cho người Ga-la-ti

8Ngày trước, anh em không biết Thượng Đế, nên đã làm nô lệ cho những thần linh giả tạo. 9Ngày nay, anh em đã tìm gặp Thượng Đế, hay đúng hơn Thượng Đế đã tìm gặp anh em, sao anh em còn quay lại làm nô lệ cho những giáo lý rỗng tuếch, vô dụng ấy? 10Anh em còn giữ ngày, tháng, mùa, năm làm gì? 11Tôi lo ngại cho anh em. Tôi sợ rằng công lao khó nhọc của tôi hóa ra vô ích.
12Thưa anh em thân yêu, xin anh em theo gương tôi, vì cũng như anh em, tôi đã từng thoát ách nô lệ của luật pháp. 13Anh em còn nhớ, trong lúc đau yếu, tôi đã đến truyền giảng Phúc âm cho anh em lần thứ nhất. 14Mặc dù bệnh hoạn của tôi có thể làm cho anh em khó chịu, nhưng anh em không khước từ, ruồng rẫy tôi. Trái lại, anh em đã tiếp đón tôi như thiên sứ của Thượng Đế, như chính Chúa Cứu Thé vậy. 15Nhiệt tình chan chứa ấy bây giờ ở đâu? Lúc ấy, anh em yêu mến tôi đến mức sẵn sàng móc mắt tặng tôi. 16Thế mà nay anh em xem tôi như người thù, có phải vì nói thật mất lòng anh em không?
17Tôi biết có những người hết sức chiều chuộng anh em với dụng ý không tốt đẹp. Họ chỉ muốn chia rẻ anh em với tôi để anh em lệ thuộc họ và hăng hái phục vụ họ. 18Tỏ nhiệt tình quý mến chân thành bao giờ cũng là một cứ chỉ đẹp, nhưng sao họ phải đợi lúc tôi có mặt mới lo chiều chuộng anh em? — 19Các con thơ bé ơi, các con làm cho ta đau đớn như người mẹ quặn thắt, đợi chờ đứa con lọt lòng, mong mỏi đến lúc hình dạng Chúa Cứu Thế nổi bật trong các con! — 20Ước gì tôi có mặt bên anh em ngay giờ phút này để nói cho cạn lời, chứ xa xôi cách trở, viết không thể nào hết ý.

Hai dòng dõi

21Anh em đã muốn phục tùng luật pháp để được cứu rỗi, không lẽ anh em không biết luật pháp nói gì sao? 22Kinh luật chép rằng Áp-ra-ham có hai con trai, một người con của vợ nô lệ, một người con của vợ tự do. 23Người vợ nô lệ sinh con theo công lệ, nhưng người vợ tự do sinh con do lời hứa của Thượng Đế. 24Chuyện ấy tượng trưng cho hai giao ước, là phương pháp Thượng Đế cứu giúp dân Ngài. Thượng Đế ban hành luật pháp trên núi Si-nai để dân Ngài vâng giữ. 25Núi Si-nai — người Á-rạp gọi là núi A-ga theo tên người mẹ nô lệ — chỉ về Giê-ru-sa-lem hiện nay, vì thành phố ấy là thủ đô của dân tộc làm nô lệ cho luật pháp. 26Còn mẹ chúng ta là Giê-ru-sa-lem tự do trên trời, không bao giờ làm nô lệ. 27Tiên tri Ê-sai đã viết: “Này, người nữ son sẻ, hãy hân hoan! Người nữ chưa hề sinh con, hãy reo mừng! Vì Ta sẽ cho ngươi con đàn cháu đống. Con cái ngươi sẽ nhiều hơn của người nữ đông con!” 28Thưa anh em, chúng ta là con cái sinh ra theo lời hứa, như Y-sác ngày xưa. 29Ngày nay, chúng ta là người do Thánh Linh sinh thành vẫn bị người lệ thuộc luật pháp bức hại, buộc chúng ta phải vâng giữ luật pháp, chẳng khác gì ngày xưa Y-sác, con sinh ra theo lời hứa, bị Ích-ma-ên, con của người nô lệ, chèn ép. 30Theo Thánh kinh, Áp-ra-ham phải đuổi người vợ nô lệ và con trai nàng, vì con trai người nô lệ không được quyền thừa kế với con trai người tự do. 31Thưa anh em, chúng ta không phải là con của người nô lệ, nhưng con của người tự do.