19

1Vớt ki, cứq sâng sưong cũai clứng lứq ỡt tâng paloŏng, alới pai casang lứq neq: “Halê-luya! Yiang Sursĩ lứq chuai amoong cũai! Ống Yiang Sursĩ hái toâp bữn ang‑ữr cớp chớc toâr lứq! 2Án táq pĩeiq cớp tanoang tapứng níc! Án khoiq táq tôt mansễm chếq tỗ. Mansễm ki khoiq táq ranáq tanghang luat ngư, cớp radững dũ cruang tâng cốc cutễq nâi táq ranáq tanghang machớng án tê. Ma Yiang Sursĩ khoiq carláh dỡq chóq án, yuaq án khoiq cachĩt máh cũai táq ranáq Yiang Sursĩ.”
3Muoi trỗ ễn, cũai clứng ki pai casang lứq neq: “Halê-luya! Phĩac tễ vil toâr ki suol achỗn mantái níc!”
4Chơ, máh arieih thâu bar chít la pỗn náq, cớp pỗn lám charán, alới sacốh racớl sang toam Yiang Sursĩ, án ca tacu tâng cachơng puo, cớp alới pai neq: “Amen! Halê-luya!”

Cữu Con Ĩt Lacuoi

5Moâm ki, cứq sâng sưong loŏh tễ cachơng puo tacu. Sưong ki pai neq: “Lứq khễn Yiang Sursĩ hái! Nheq tữh anhia ca táq ranáq án cớp yám noap án, cũai toâr cớp cũai cớt, cóq anhia khễn án!”
6Vớt ki, cứq sâng sưong cũai clứng lứq, samoât hỗ dỡq toâr, cớp samoât crứm bubữr casang lứq. Sưong ki pai neq: “Halê-luya! Yiang Sursĩ la Ncháu hái, cớp án sốt toâr lứq. Án cỡt Puo mantái níc! 7Cóq hái sâng bũi óh lứq! Cóq hái ỡn apũol! Cóq hái yám noap Yiang Sursĩ! Khoiq toâq chơ tangái Cữu Con ĩt lacuoi. Lacuoi ki khoiq thrũan chơ. 8Chơ noau yỗn án sớp tampâc táq toâq aroâiq o lứq. Aroâiq ki noau dŏq la aroâiq busín. Aroâiq ki bráh cớp cloc lứq.” (Aroâiq busín sacâm tễ máh ranáq tanoang o cũai ca puai ngê Yiang Sursĩ khoiq táq.)
9Moâm ki, ranễng Yiang Sursĩ atỡng cứq neq: “Cóq mới chĩc neq: Bốn lứq máh cũai Yiang Sursĩ mơi yỗn toâq hâu Cữu Con racoâiq.”
 Cớp ranễng ki atỡng cứq ễn neq: “Máh santoiq Yiang Sursĩ atỡng la santoiq pĩeiq lứq.”
10Chơ cứq sacốh racớl yoc ễ sang ranễng Yiang Sursĩ ki, ma án pai chóq cứq neq: “Chỗi táq ngkíq! Cứq táq ranáq Yiang Sursĩ machớng mới tê, cớp machớng máh cũai tễ tỗp sa‑âm ca atỡng tễ ngê Yê-su. Cóq mới sang toam ống Yiang Sursĩ sâng! Alới ca atỡng tễ ngê Yê-su, ki bữn Raviei Yiang Sursĩ ỡt tâng mứt pahỡm alới machớng máh cũai tang bỗq Yiang Sursĩ tê.”

Án Ca Ỡt Tâng Cloong Aséh Cloc

11Moâm ki, cứq hữm paloŏng ariang noau pớh. Cớp cứq hữm muoi lám aséh cloc. Án ca ỡt tâng cloong aséh, noau dŏq án la Ŏ́c Sa‑âm Samoât cớp Ŏ́c Pĩeiq Níc. Án rablớh cớp rachíl na tanoang tapứng lứq. 12Moat án la samoât pla ũih. Án tapưng sa‑ữi vuam puo. Án clễu ramứh ca noau khoiq chĩc yỗn án, ma tỡ bữn noau dáng ramứh ki. Ống án toâp dáng ramứh ki. 13Tampâc án noau khoiq alốq tâng aham. Muoi ramứh ễn noau dŏq án la Parnai Yiang Sursĩ. 14Clứng lứq tahan tễ paloŏng puai án. Nheq tahan ki ỡt muoi noaq muoi lám aséh cloc cớp alới sớp tampâc táq toâq aroâiq busín bráh o lứq. 15Án ca sốt tahan cubỗ tâng bỗq án muoi pla dau bớc lứq. Na dau nâi án rachíl riap dũ cruang. Cớp án yống muoi ntreh dũi tac dŏq sốt máh cruang ki. Án táq yỗn cũai chĩuq túh coat, yuaq Yiang Sursĩ Sốt Toâr Lứq sâng cutâu mứt lứq chóq alới. 16Tâng tampâc cớp tâng nlu cũai sốt tahan bữn muoi ramứh noau khoiq chĩc dŏq, la neq: “Nâi la Puo dũ puo canŏ́h, cớp Ncháu dũ ncháu canŏ́h.”

Án Ca Ỡt Tâng Cloong Aséh Cloc Chíl Riap

17Moâm ki, cứq hữm manoaq ranễng Yiang Sursĩ ỡt tayứng tâng moat mandang. Án pai casang lứq chóq nheq tữh chớm pâr tâng paloŏng neq: “Anhia toâq pỡ nâi! Nheq tữh anhia rôm pỡ nâi! Yiang Sursĩ ễ táq muoi pêl toâr yỗn anhia! 18Ngkíq anhia toâq cha sâiq máh cũai puo, máh sốt tahan, máh tahan, máh aséh cớp máh cũai ỡt aséh. Cớp anhia cha sâiq tễ dũ thữ cũai, cũai sũl cớp cũai tỡ bữn sũl, cũai toâr cớp cũai cớt!”
19Vớt ki, cứq hữm charán pla, cớp máh puo ca ỡt tâng cutễq parnơi cớp nheq tữh tahan, alới rôm ễ chíl án ca ỡt tâng cloong aséh cloc cớp nheq tữh tahan án. 20Ma noau cỗp charán pla cớp án ca táq nan tang bỗq Yiang Sursĩ. Cũai táq nan tang bỗq Yiang Sursĩ khoiq táq sa‑ữi ranáq salễh, dŏq chuai charán pla ki yỗn têq raphếq máh cũai ca clễu tếc charán pla, cớp máh cũai sang rup charán pla ki. Charán pla cớp cũai táq nan tang bỗq Yiang Sursĩ, ki noau apŏ́ng alới na mumoong tâng pống sarloac bữn ũih cớp mữ blữ níc. 21Cớp máh tahan charán pla ki cuchĩt nheq toâq dau án ca ỡt tâng cloong aséh cubỗ tâng bỗq. Chơ nheq máh chớm tễ paloŏng toâq cha pasâi sâiq cũai tahan ki.

19

Ca Mừng trên Thiên Ðàng

1Sau những điều ấy, tôi nghe có tiếng như tiếng của một đám đông rất lớn trên trời hô to rằng,
  “Ha-lê-lu-gia!
  Ơn cứu rỗi, vinh hiển, và quyền lực đều thuộc về Ðức Chúa Trời của chúng ta,
  2Vì những phán quyết của Ngài đều là chân chính và công bình.
  Ngài đã đoán phạt con điếm trứ danh,
  Kẻ đã làm băng hoại thế gian bằng sự gian dâm của nó.
  Ngài đã báo thù cho máu của các đầy tớ Ngài bị nó làm đổ ra.”
3Họ lại nói lần nữa rằng,
  “Ha-lê-lu-gia!
  Khói từ nó bay lên đời đời vô cùng.”
4Hai mươi bốn vị trưởng lão và bốn Sinh Vật sấp mình xuống và thờ lạy Ðức Chúa Trời, Ðấng đang ngự trên ngai, và nói,
  “A-men! Ha-lê-lu-gia!”
5Kế đó, một tiếng nói từ ngai vang ra, bảo rằng,
  “Hãy ca ngợi Ðức Chúa Trời của chúng ta,
  Hỡi các đầy tớ của Ngài và hỡi những người kính sợ Ngài, cả nhỏ lẫn lớn.”

Tiệc Cưới của Chiên Con

6Bấy giờ tôi nghe có tiếng gì như tiếng của một đám đông rất lớn, như tiếng của nhiều dòng nước chảy, và như tiếng của nhiều tiếng sấm nổ vang rền rằng,
  “Ha-lê-lu-gia!
  Vì Chúa là Ðức Chúa Trời Toàn Năng của chúng ta đang trị vì.
  7Chúng ta hãy vui mừng, hớn hở, và dâng vinh hiển lên Ngài,
  Vì hôn lễ của Chiên Con đã đến,
  Và cô dâu của Ngài đã chuẩn bị cho nàng sẵn sàng.”
8Cô dâu ấy đã được ban cho bộ y phục bằng vải gai mịn, tinh bạch, và rạng ngời để mặc; vì vải gai mịn tượng trưng cho những việc công chính của các thánh đồ.
9Bấy giờ vị thiên sứ bảo tôi, “Hãy chép điều nầy, ‘Phước cho những người được mời đến dự tiệc cưới của Chiên Con.’” Vị thiên sứ ấy lại bảo tôi, “Ðây là những lời chân thật của Ðức Chúa Trời.”
10Tôi liền sấp mình xuống trước mặt vị thiên sứ ấy để thờ lạy, nhưng vị thiên sứ ấy bảo tôi, “Chớ làm vậy, vì ta cũng chỉ là một đồng bạn làm đầy tớ với ngươi và với anh chị em ngươi, những người giữ vững lời chứng của Ðức Chúa Jesus; hãy thờ phượng Ðức Chúa Trời; vì lời chứng của Ðức Chúa Jesus là linh khí của lời tiên tri.”

Ðấng Cỡi Ngựa Trắng

11Bấy giờ tôi thấy trời mở ra; và kìa, một con ngựa trắng với người cỡi nó được xưng là Ðấng Thành Tín và Chân Thật, và Ngài theo lẽ công chính mà đoán xét và tuyên chiến. 12Mắt Ngài như ngọn lửa hừng, trên đầu Ngài có nhiều vương miện, và Ngài có một danh được ghi rõ, nhưng không ai hiểu ngoài ra Ngài. 13Ngài mặc một áo choàng đã nhúng trong máu, và danh Ngài được xưng là Lời Ðức Chúa Trời. 14Các đạo binh trên trời mặc quân phục bằng vải gai mịn, trắng ngần, và tinh sạch, cỡi ngựa trắng, đi theo Ngài. 15Từ miệng Ngài ra một thanh gươm sắc bén, để Ngài dùng nó đánh hạ các nước; Ngài chăn dắt họ bằng một cây gậy sắt; và Ngài đạp nát nho trong bồn ép nho cho thành rượu sủi bọt thịnh nộ phừng phừng của Ðức Chúa Trời Toàn Năng. 16Trên áo Ngài và nơi đùi Ngài có ghi một danh, “Vua của các vua và Chúa của các chúa.”
17Sau đó tôi thấy một vị thiên sứ đứng trong mặt trời; vị thiên sứ ấy lớn tiếng bảo mọi loài chim bay giữa trời rằng, “Hãy đến! Hãy tụ họp để dự đại tiệc của Ðức Chúa Trời, 18để các ngươi có thể ăn thịt các vua, thịt các quan tướng, thịt các dũng sĩ, thịt các chiến mã, thịt các kỵ binh, và thịt của mọi người, cả tự do lẫn nô lệ, cả nhỏ lẫn lớn.”
19Bấy giờ tôi thấy Con Thú, các vua trên đất, và các đạo quân của họ tập họp lại để chiến đấu với Ðấng cỡi ngựa trắng và với đạo quân của Ngài. 20Con Thú và tiên tri giả của nó đều bị bắt sống; tiên tri giả ấy là kẻ đã thực hiện những dấu lạ trước mặt Con Thú; nó đã dùng những dấu lạ để gạt những kẻ đã nhận dấu của Con Thú và những kẻ thờ phượng tượng của Con Thú. Hai kẻ đó bị quăng sống vào lò lửa cháy phừng phừng với lưu huỳnh. 21Còn những kẻ khác bị giết bằng thanh gươm của Ðấng cỡi trên lưng ngựa, đó là thanh gươm đã ra từ miệng Ngài; và tất cả chim trời được no nê vì thịt của chúng.