1

Lĕ Nau Tâm Saơ

Nau Kuăl Ăn Sĭt Ma Yêhôva

1Khay pham năm tal bar Y-Darius chiă uănh, Yêhôva ngơi ma kôranh nơm mbơh lor Y-Sakari, kon bu klâu Y-Bêrêkia, sau Y-Idô, lah: 2Yêhôva nuih ngăn ma chô-che khân may. 3Pôri may lah hom ma khân păng: Pô aơ nau Yêhôva ma phung tahan lah: Plơ̆ sĭt hom ma gâp, Yêhôva ma phung tahan lah, ri mơ gâp mra plơ̆ sĭt ma khân may. Yêhôva ma phung tahan lah.
4Lơi ta ƀư nâm bu chô che khân may, phung kôranh nơm mbơh lor kăl e hŏ kuăl jêh khân păng, lah: Yêhôva ma phung tahan lah pô aơ, chalơi hom trong mhĭk hêh ri nau mhĭk khân may ƀư; ƀiălah khân păng mâu iăt ôh, mâu lĕ ŭch tông ma gâp, Yêhôva lah. 5Ta ntŭk chô che khân may gŭ? jêh ri phung kôranh nơm mbơh lor geh nau rêh n'ho ro lĕ? 6Ƀiălah nau gâp ngơi jêh ri nau vay gâp hŏ ntăm jêh ma phung oh mon gâp jêng phung kôranh nơm mbơh lor, tât lĕ nau nây ma chô che khân may? Pôri khân păng rmal nau tih jêh ri lah: Lĕ rngôch nau Yêhôva ma phung tahan hŏ mĭn jêh ma he tĭng nâm trong jêh ri kan he ƀư, tâm ban pô nây lĕ păng hŏ ƀư ma he.

Nau Kôranh Nơm Mbơh Lor Tâm Saơ Seh

7Ta nar bar jê̆t ma puăn, khay jê̆t ma nguay, jêng khay Sêbat, tâm năm tal bar Y-Darius, chiă uănh, Yêhôva ngơi ma kôranh nơm mbơh lor Y-Sakari, kon bu klâu Y-Bêrêkia, Sau Y-Idô pô aơ: 8Gâp saơ dôl bri măng: aơ, geh du huê ncho sah chăng dâk tâm rlô tơm si mirtơ tâm rlŭng, jêh ri pakơi păng geh phung seh chăng, seh guh, seh nglang. 9Gâp lah: Hơi kôranh gâp, moh bu ntơ seh nây? pôri tông păr uch ngơi ma gâp, Gâp mra tâm mpơl moh khân păng jêng. 10Pô nây bunuyh dâk tâm rlô tơm si mirtơ plơ̆ lah: Aơ jêng phung nơm Yêhôva prơh hăn nsong chop uănh neh ntu. 11Khân păng plơ̆ lah ma tông păr uch dâk tâm rlô tơm si mirtơ pô aơ: Hên hŏ hăn nsong uănh jêh neh ntu aơ, lĕ rngôch neh ntu ăt gŭ răk klăk jêh ri đăp mpăn.
12Rnôk nây tông păr ueh bơh Yêhôva plơ̆ lah: Hơi Yêhôva ma phung tahan! Ndah nâm jŏ may yô̆ klâng ma ƀon Yêrusalem jêh ri lĕ ƀon tâm n'gor Yuda, jêng ƀon Păng hŏ ji nuih jêh ri tâm rdâng đah păng tâm pơh jê̆t năm aƀaơ ri? 13Yêhôva plơ̆ sĭt lah ma nau ngơi ueh, nau ngơi bonh leng ma tông păr ueh nơm ngơi đah gâp.

14Pô nây, tông păr ueh dôl ngơi ndrel gâp, lah pô aơ: Mbơh hom, jêh ri lah: Yêhôva ma phung tahan lah, gâp bêng ma nau ntôn ngăn ma ƀon Yêrusalem jêh ri yôk Siôn; 15Jêh ri gâp nuih ngăn phung ntil mpôl bunuyh gŭ đăp mpăn; yorlah gâp bơi ma ji nuih, jêh ri khân păng lơ ntop nau rêh ni.
16Yor nây Yêhôva lah: Gâp plơ yô̆ đô̆ng ma ƀon Yêrusalem; yorlah ngih brah gâp mra ndâk tâm trôm păng, rse bu mra veh nthăng tâm ƀon Yêrusalem, Yêhôva ma phung tahan lah. 17Mbơh tay đŏng: Yêhôva ma phung tahan lah: Lĕ rngôch ƀon toyh gâp mra hôm mbêng ma nau chăt jêng, Yêhôva hôm e bonh yôk Siôn jêh ri săch đŏng ƀon Yêrusalem. 18Pônây, gâp n'gơr măt, jêh ri saơ, aơ, geh puăn mlâm nke. 19Gâp lah ma tông păr ueh dôl ngơi đah gâp, lah: Moh ndơ nây? Păng plơ lah: Nây jêng nke hŏ ƀư rai pru pra jêh phung Yuda, phung Israêl, jêh ri phung Yêrusalem.
20Jêh ri Yêhôva mpơl ma gâp saơ puăn nuyh chiăr; 21Pôri gâp ôp: Phung aơ văch tât moh nau ƀư? Păng plơ̆ lah: Nây jêng nke hŏ ƀư rai ăn phung Yuda pru pra, kŏ tât mâu geh nuyh n'gơr bôk ôh; ƀiălah phung hŏ văch tât aơ gay ƀư nkrit khân păng, jêh ri gay klô̆p lơi nke phung mpôl băl bunuyh bri bu hŏ tâm rdâng đah n'gor Yuda gay ăn khân ôbăl chah rai pru pra.

1

Các sự hiện thấy

(Từ đoạn 1 đến đoạn 6)

Khuyên phải ăn năn. – Sự hiện thấy về ngựa và thợ rèn

1 Tháng tám năm thứ hai Đa-ri-út, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng đấng tiên tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu Y-đô, mà rằng: 2 Đức Giê-hô-va đã rất không bằng lòng tổ phụ các ngươi. 3 Vậy ngươi khá nói cùng chúng rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Hãy trở lại cùng ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, thì ta sẽ trở lại cùng các ngươi, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
4 Chớ như tổ phụ các ngươi, các tiên tri xưa kia đã kêu họ mà rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Bây giờ khá xây bỏ đường dữ và việc làm dữ của các ngươi; nhưng họ chẳng nghe, chẳng hề để ý nghe ta, Đức Giê-hô-va phán vậy. 5 Chớ nào tổ phụ các ngươi ở đâu? Và những tiên tri ấy có sống đời đời chăng? 6 Song những lời phán và lệ luật ta đã truyền cho tôi tớ ta là các đấng tiên tri, há chẳng kịp đến tổ phụ các ngươi sao? Nên họ đã trở lại và nói rằng: Mọi điều mà Đức Giê-hô-va vạn quân đã định làm cho chúng ta theo như đường lối và việc làm của chúng ta, thì đã làm cho chúng ta như vậy.
7 Ngày hai mươi bốn tháng mười một, là tháng Sê-bát, trong năm thứ hai Đa-ri-út, có lời của Đức Giê-hô-va phán cho đấng tiên tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu Y-đô, như vầy: 8 Ta thấy trong ban đêm: Nầy, có một người cỡi ngựa hồng đứng trong những cây sim ở nơi thấp, và đằng sau người có những ngựa hồng, ngựa xám, ngựa trắng. 9 Ta nói rằng: Hỡi chúa tôi, những ngựa ấy nghĩa là gì? thì thiên sứ nói cùng ta, bảo ta rằng: Ta sẽ chỉ cho ngươi những ngựa nầy nghĩa là gì. 10 Người đứng trong những cây sim đáp rằng: Đây là những kẻ mà Đức Giê-hô-va sai đi lại trải qua đất. 11 Chúng nó bèn đáp lại cùng thiên sứ đứng trong những cây sim rằng: Chúng tôi đã đi lại trải qua đất; nầy, cả đất đều ở yên và im lặng.
12 Bấy giờ thiên sứ của Đức Giê-hô-va đáp rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va vạn quân! Ngài sẽ không thương xót Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa cho đến chừng nào, là những thành Ngài đã nổi giận nghịch cùng nó bảy mươi năm nay? 13 Đức Giê-hô-va lấy những lời lành, những lời yên ủi đáp cùng thiên sứ đương nói với ta.
14 Đoạn, thiên sứ đương nói cùng ta, bảo ta rằng; Khá kêu lên và nói rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân có phán: Ta vì Giê-ru-sa-lem và Si-ôn động lòng ghen quá lắm; 15 và ta rất không đẹp lòng các dân tộc đương yên vui; vì ta hơi không bằng lòng, và chúng nó càng thêm sự khốn nạn.
16 Vậy nên Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta lấy lòng thương xót trở về cùng Giê-ru-sa-lem; nhà ta sẽ xây lại trong nó, dây mực sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. 17 Hãy kêu lần nữa mà rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Các thành ta sẽ còn đầy tràn sự thạnh vượng, Đức Giê-hô-va sẽ còn yên ủi Si-ôn, và còn kén chọn Giê-ru-sa-lem.
18 Đoạn, ta ngước mắt lên, ta nhìn xem, nầy, có bốn cái sừng. 19 Ta bèn nói cùng thiên sứ đương nói với ta rằng: Những vật ấy là gì? Người đáp cùng ta rằng: Ấy là những sừng đã làm tan tác Giu-đa, Y-sơ-ra-ên, và Giê-ru-sa-lem.
20 Đoạn, Đức Giê-hô-va cho ta xem bốn người thợ rèn; 21 thì ta hỏi rằng: Những kẻ nầy đến làm chi? Ngài đáp rằng: Ấy đó là những sừng đã làm tan tác Giu-đa, cho đến nỗi không người nào ngóc đầu lên được; nhưng những kẻ nầy đã đến để làm kinh hãi chúng nó, và để ném xuống những sừng của các nước đã cất sừng lên nghịch cùng đất Giu-đa đặng làm tan tác nó.