1

Lu-ca thuật lại cuộc đời của Chúa Giê-xu

1Nhiều người đã tường thuật những việc xảy ra giữa chúng ta. 2Họ ghi lại những gì chúng ta đã nghe từ người khác là những người đã chứng kiến những việc ấy từ đầu, và phục vụ Thượng Đế bằng cách phổ biến lời của Chúa cho mọi người. 3Thưa ngài Thi-ô-phi-lơ, vì tôi cũng đã nghiên cứu cẩn thận mọi việc từ đầu, nên tôi thấy cần phải thuật lại cho ngài. Tôi sắp xếp những chuyện ấy 4để ngài biết điều mình đã học là xác thật.

Xa-cha-ri và Ê-li-xa-bét

5Trong thời kỳ vua Hê-rốt cai trị xứ Giu-đia, có một thầy tế lễ tên Xa-cha-ri thuộc nhóm A-bi-gia. Ê-li-xa-bét, vợ Xa-cha-ri thuộc dòng họ A-rôn. 6Xa-cha-ri và Ê-li-xa-bét sống cuộc đời thánh thiện trước mặt Thượng Đế. Cả hai đều vâng giữ những lời dạy của Chúa và luật lệ Ngài một cách hoàn toàn, không chỗ nào chê trách được. 7Nhưng hai ông bà không có con, vì Ê-li-xa-bét không thể sinh con được. Hơn nữa, cả hai người đều cao tuổi.
8Một hôm Xa-cha-ri đang thi hành nhiệm vụ tế lễ trước mặt Thượng Đế, vì ngày đó là phiên của nhóm ông. 9Theo tục lệ bắt thăm giữa các thầy tế lễ, Xa-cha-ri trúng thăm để vào đốt hương nơi đền thờ của Chúa. 10Bên ngoài có rất đông người đang cầu nguyện trong giờ dâng hương. 11Bỗng một thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Xa-cha-ri, đứng bên phải bàn dâng hương. 12Nhìn thấy thiên sứ, Xa-cha-ri giật mình hốt hoảng. 13Nhưng thiên sứ trấn an, “Xa-cha-ri ơi, đừng sợ. Thượng Đế đã nghe lời cầu nguyện của ông rồi. Ê-li-xa-bét, vợ ông sẽ sinh một trai, ông hãy đặt tên là Giăng. 14Con ấy sẽ mang niềm vui sướng cho ông, và nhiều người sẽ mừng rỡ vì nó ra đời. 15Giăng sẽ làm một vĩ nhân cho Chúa; sẽ không uống rượu hay thức uống say, và ngay từ khi mới sinh ra đã được đầy dẫy Thánh Linh. 16Giăng sẽ đưa nhiều người trong Ít-ra-en trở về với Thượng Đế là Chúa mình. 17Người sẽ đi trước mặt Chúa với thần linh và năng quyền của Ê-li. Người sẽ làm cho cha mẹ và con cái hòa thuận với nhau, và đưa những kẻ bất phục tùng Thượng Đế trở về đường chánh, để chuẩn bị dân chúng chào mừng Chúa đến.”
18Xa-cha-ri thưa với thiên sứ, “Làm sao tôi biết được lời ông nói là đúng? Vì tôi đã cao tuổi rồi còn vợ tôi cũng không trẻ trung gì.”
19Thiên sứ đáp, “Tôi là Gáp-ri-ên đứng trước mặt Thượng Đế. Ngài sai tôi đến để báo tin mừng nầy cho ông. 20Bây giờ hãy nghe đây! Ông sẽ bị câm cho đến ngày những điều tôi nói được thành tựu, vì ông không tin điều tôi nói. Những điều ấy chắc chắn sẽ xảy ra.”
21Bên ngoài dân chúng đứng chờ Xa-cha-ri. Họ ngạc nhiên vì Xa-cha-ri ở quá lâu trong đền thờ. 22Khi ông đi ra thì Xa-cha-ri không nói được với họ. Dân chúng hiểu ngay là ông ta đã thấy chuyện lạ trong đền thờ. Ông chỉ có thể ra dấu cho họ trong khi vẫn câm. 23Lúc mãn phiên phục vụ trong đền thờ, Xa-cha-ri trở về nhà.
24Sau đó Ê-li-xa-bét, vợ Xa-cha-ri thụ thai. Bà ở biệt trong nhà suốt năm tháng trời. Ê-li-xa-bét nói rằng, 25“Hãy xem điều Chúa đã làm cho tôi! Đồng bào tôi xấu hổ về tôi nhưng Chúa đã lấy sự xấu hổ khỏi tôi.”

Một thiên sứ hiện ra cùng Ma-ri

26Sau khi Ê-li-xa-bét mang thai được sáu tháng thì Thượng Đế sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến Na-xa-rét, một thị trấn miền Ga-li-lê 27gặp một trinh nữ. Cô đã hứa hôn với một người tên Giô-xép thuộc dòng họ vua Đa-vít. Cô tên Ma-ri. 28Thiên sứ đến gặp cô và nói, “Chào cô! Chúa đã ban phúc cho cô và ở cùng cô.”
29Nhưng Ma-ri sửng sốt về lời chào của thiên sứ, không hiểu lời ấy có nghĩa gì.
30Thiên sứ bảo cô, “Cô Ma-ri ơi, đừng sợ; Thượng Đế đã ban ân phúc Ngài trên cô. 31Hãy nghe đây. Cô sẽ mang thai và sinh một bé trai, cô hãy đặt tên là Giê-xu. 32Em bé ấy sẽ rất cao trọng và được gọi là Con của Đấng Tối Cao. Thượng Đế sẽ cho Ngài ngôi vua Đa-vít là tổ tiên Ngài. 33Ngài sẽ trị vì con cháu nhà Gia cốp mãi mãi. Nước Ngài còn đời đời.”
34Ma-ri thưa với thiên sứ, “Làm sao chuyện ấy xảy ra được, trong khi tôi là một trinh nữ?”
35Thiên sứ đáp, “Thánh Linh sẽ đến trên cô và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ che phủ cô. Vì thế mà hài nhi sinh ra sẽ là hài nhi thánh và được gọi là Con Thượng Đế. 36Hiện thời Ê-li-xa-bét, bà con cô đang mang thai một bé trai, mặc dù bà rất cao tuổi. Ai cũng nghĩ bà ấy không thể nào sinh con được, tuy nhiên bà đã mang thai được sáu tháng rồi. 37Vì việc gì Thượng Đế làm cũng được cả!”
38Ma-ri thưa, “Tôi đây là đầy tớ của Chúa. Xin việc ấy được thành theo điều người nói!” Rồi thiên sứ từ giã Ma-ri.

Ma-ri thăm Ê-li-xa-bét

39Ma-ri vội vã đi tới một thị trấn trong vùng đồi núi miền Giu-đia. 40Cô đến nhà Xa-cha-ri và chào Ê-li-xa-bét. 41Khi Ê-li-xa-bét nghe tiếng Ma-ri chào thì bào thai trong bụng bà nhảy lên và Ê-li-xa-bét được đầy Thánh Linh. 42Bà kêu lên, “Thượng Đế đã ban phúc cho chị nhiều hơn các phụ nữ khác và Ngài cũng ban phúc cho hài nhi chị sắp sinh ra. 43Tại sao tôi được diễm phúc nầy, là mẹ của Chúa tôi đến thăm tôi? 44Khi tôi vừa nghe tiếng của chị, thì bào thai trong bụng tôi nhảy mừng. 45Chị được ân phúc, vì chị tin rằng điều gì Chúa nói cùng với chị sẽ thành tựu.”

Ma-ri ca ngợi Thượng Đế

46Rồi Ma-ri nói rằng,
  “Linh hồn tôi ca tụng Chúa;
  47Lòng tôi vui mừng trong Thượng Đế là Chúa Cứu Thế của tôi,
  48vì Ngài đoái đến đầy tớ gái hèn mọn của Ngài.
   Từ nay về sau mọi người sẽ cho tôi là người có phúc,
  49vì Đấng Toàn Năng đã làm những điều kỳ diệu cho tôi.
   Danh Ngài là Thánh.
  50Thượng Đế sẽ tỏ lòng nhân từ của Ngài
   cho những người thờ kính và phục vụ Ngài đến mãi mãi.
  51Ngài đã làm những việc lớn lao do quyền năng của Ngài.
   Ngài phân tán những kẻ kiêu ngạo và kẻ tự đề cao mình.
  52Ngài hạ bệ các kẻ cầm quyền khỏi ngôi họ
   và nâng những kẻ khiêm nhường lên.
  53Ngài cho những kẻ đói đầy đủ thức ăn ngon,
   và đuổi những kẻ giàu đi ra tay không.
  54Ngài giúp đỡ tôi tớ Ngài là dân Ít-ra-en,
   và không quên tỏ ra lòng nhân từ của Ngài đối với họ
  55như Ngài đã hứa cùng tổ tiên của chúng ta,
   cùng Áp-ra-ham và con cháu người đến mãi mãi.”
56Ma-ri ở chơi với Ê-li-xa-bét khoảng ba tháng rồi trở về nhà.

Giăng Báp-tít ra đời

57Đến kỳ sinh nở, Ê-li-xa-bét sinh ra một bé trai. 58Láng giềng và bà con đến chung vui vì nghe Chúa đã tỏ lòng nhân từ đối với bà.
59Khi em bé được tám ngày, thì người ta đến làm phép cắt dương bì cho em. Họ định đặt tên em là Xa-cha-ri theo tên cha, 60nhưng bà mẹ bảo, “Không! Phải đặt tên nó là Giăng.”
61Họ bảo Ê-li-xa-bét, “Nhưng trong họ hàng bà không ai có tên ấy.” 62Họ liền ra dấu cho cha đứa bé hỏi xem ông muốn đặt tên gì.
63Xa-cha-ri xin tấm bảng nhỏ rồi viết lên, “Tên nó là Giăng.” Mọi người đều kinh ngạc. 64Ngay lúc ấy Xa-cha-ri nói được trở lại và ca tụng Thượng Đế. 65Hàng xóm, láng giềng đâm ra lo sợ, còn dân chúng khắp vùng đồi núi Giu-đia không ngớt bàn tán về chuyện đó. 66Những người nghe chuyện hỏi nhau rằng, “Em bé ấy lớn lên sẽ ra sao?” vì quyền năng của Chúa ở cùng cậu ấy.

Xa-cha-ri ca ngợi Thượng Đế

67Bấy giờ Xa-cha-ri, cha của Giăng đầy Thánh Linh và nói tiên tri:
  68“Chúng ta hãy ca ngợi Chúa là Thượng Đế của Ít-ra-en,
   vì Ngài đến cứu giúp dân Ngài và giải thoát họ.
  69Ngài đã cho chúng ta một Đấng Cứu Thế quyền năng,
   xuất thân từ gia đình Đa-vít, tôi tớ Ngài.
  70Qua các nhà tiên tri thánh của Chúa đã sống từ ngàn xưa,
   Ngài hứa sẽ hoàn thành điều ấy:
  71Ngài hứa sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù
   và khỏi thế lực của những kẻ ghét chúng ta.
  72Ngài hứa sẽ tỏ lòng nhân từ cho cha ông chúng ta
   và cam kết sẽ giữ lời hứa thánh của Ngài.
  73Ngài hứa với Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta
  74rằng Ngài sẽ giải cứu chúng ta khỏi quyền lực của kẻ thù
   để chúng ta có thể phục vụ Ngài mà không sợ hãi,
  75để chúng ta trở nên thánh thiện và nhân đức
   trước mặt Ngài suốt đời chúng ta.
  76Bây giờ, con ơi, con sẽ được gọi là nhà tiên tri của Đấng Tối Cao.
   Con sẽ đi trước để dọn đường cho Chúa.
  77Con sẽ khiến cho dân Ngài biết là họ sẽ được cứu,
   khi tội họ được xóa hết.
  78Do lòng nhân từ thương xót của Thượng Đế,
   một bình minh mới từ thiên đàng sẽ chiếu trên chúng ta.
  79Ánh sáng sẽ chiếu trên những kẻ sống trong tăm tối,
   ở dưới bóng chết, và dẫn chúng ta vào lối đi hòa bình.”
80Đứa trẻ lớn lên, tinh thần thêm mạnh mẽ. Giăng sống trong đồng hoang cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.

1

Klei Kma Blŭ

1Mâo lu mnuih mă bruă jih ai tiê čih yăl dliê klei truh leh ti krah phung drei. 2Diñu čih klei anăn djŏ tui si phung ƀuh hŏng ală mơ̆ng phŭn leh anăn jing phung pô mtô klei blŭ anăn hưn bi êdah kơ drei. 3Kyuanăn kâo msĕ mơh mĭn jăk, leh kâo ksiêm bi nik jih jang klei anăn mơ̆ng phŭn, čiăng čih bi djŏ pruê̆ klei anăn kơ ih, Ơ Khua Y-Thêôphil, 4čiăng kơ ih dưi thâo klei sĭt kơ jih klei arăng hưn kơ ih leh.

Klei Hưn Êlâo kơ Klei Kkiêng kơ Y-Yôhan Pô Ngă Ƀaptem

5 Ênuk Hêrôt jing mtao čar Yuđa, mâo sa čô khua ngă yang anăn ñu Y-Sakari mơ̆ng êpul Y-Abija. Mô̆ ñu mơ̆ng găp djuê Y-Arôn, anăn gơ̆ H'Êlisabet. 6Jih diñu dua dôk kpă ênô ti anăp Aê Diê tui hlue jih klei bhiăn leh anăn klei Khua Yang mtă amâo mâo klei arăng dưi ƀuah ôh. 7Diñu amâo mâo anak ôh, kyuadah H'Êlisabet jing mniê plao, leh anăn jih diñu dua mduôn leh sơăi.
8Djŏ wir êpul ñu, Y-Sakari ngă bruă khua ngă yang ti anăp Aê Diê, 9tui si klei bhiăn phung khua ngă yang, bruă djŏ kơ ñu hŏng klei mđăo brei mŭt čuh mnơ̆ng ƀâo mngưi hlăm Sang Kkuh Mpŭ Khua Yang. 10Jih jang mnuih lu dôk wah lač ti tač êjai mông čuh mnơ̆ng ƀâo mngưi. 11Hlăk anăn mâo sa čô dĭng buăl jăk Khua Yang bi êdah kơ ñu dôk dơ̆ng tĭng hnuă knưl čuh mnơ̆ng ƀâo mngưi. 12Y-Sakari rŭng răng leh anăn huĭ tơdah ñu ƀuh dĭng buăl jăk anăn. 13Ƀiădah dĭng buăl jăk lač kơ ñu, “Đăm huĭ ôh, Ơ Y-Sakari, kyuadah Aê Diê hmư̆ leh klei ih wah lač. Mô̆ ih H'Êlisabet srăng kkiêng kơ ih sa čô anak êkei, leh anăn ih srăng bi anăn gơ̆ Y-Yôhan.
  14Ih srăng mâo klei hơ̆k kdơ̆k leh anăn klei mơak mñai,
   leh anăn lu mnuih srăng mơak kyua klei kkiêng kơ gơ̆.
  15 Kyuadah gơ̆ srăng jing prŏng ti anăp Khua Yang.
   Gơ̆ amâo srăng mnăm ôh kpiê boh kriăk ƀâo amâodah kpiê ktang,
   leh anăn gơ̆ srăng bŏ hŏng Yang Mngăt Jăk dơ̆ng mơ̆ng tian amĭ gơ̆.
  16Gơ̆ srăng bi wĭt lu phung anak êkei Israel kơ Khua Yang Aê Diê diñu.
  17 Gơ̆ srăng nao ti anăp Khua Yang hŏng ai mĭn leh anăn klei myang Y-Êli,
   čiăng bi grăng ai tiê phung ama hŏng phung anak diñu,
  leh anăn bi wir phung amâo thâo gưt asăp kơ klei thâo mĭn phung kpă,
   čiăng mkra sa phung găp djuê bi jăk kơ Khua Yang.”
18Y-Sakari lač kơ dĭng buăl jăk, “Si kâo srăng thâo klei anăn? Kyuadah kâo mduôn leh, leh anăn mô̆ kâo mduôn leh mơh.” 19Dĭng buăl jăk lŏ wĭt lač kơ ñu, “Kâo gơ̆ Gabriel, pô dôk ti anăp Aê Diê. Aê Diê tiŏ hriê kâo blŭ hrăm hŏng ih leh anăn hưn kơ ih klei mrâo mrang jăk anei. 20Nĕ anei, ih srăng jing kmlô, amâo dưi blŭ ôh tơl hruê klei anăn srăng truh, kyuadah ih amâo đăo ôh kơ klei kâo blŭ. Klei blŭ anăn srăng bi truh sĭt djŏ hruê.” 21Êjai anăn phung ƀuôn sang dôk guôn Y-Sakari, leh anăn bi kngăr kyua ñu dôk sui hlăm Sang Kkuh Mpŭ. 22Tơdah ñu kbiă, ñu amâo dưi blŭ kơ digơ̆ ôh, leh anăn digơ̆ thâo kơ ñu mâo leh klei bi ƀuh hlăm Sang Kkuh Mpŭ. Kyua amâo dưi blŭ ôh, snăn ñu bi hmô hŏng kngan ñu kơ digơ̆. 23Tơdah ruê̆ leh jih hruê ñu mă bruă, ñu wĭt kơ sang.
24Sui ƀiă tinăn mô̆ ñu H'Êlisabet ba tian. Êjai êma mlan H'Êlisabet mdăp ñu pô leh anăn lač, 25“Khua Yang ngă leh klei pap kơ kâo tơdah ñu dlăng kơ kâo, čiăng mă hĕ mơ̆ng kâo klei hêñ ti anăp phung ƀuôn sang.”

Klei Hưn Êlâo Klei Kkiêng kơ Yêsu

26Năm mlan êdei, Aê Diê tiŏ nao dĭng buăl jăk Ñu Gabriel kơ sa boh ƀuôn hlăm čar Galilê bi anăn ƀuôn Nasaret, 27 kơ sa čô mniê êra hrông bi čuôp leh hŏng sa čô êkei, anăn gơ̆ Y-Yôsep, mơ̆ng găp djuê Y-Đawit. Arăng bi anăn mniê êra hrông anăn H'Mari. 28Dĭng buăl jăk truh kơ H'Mari leh anăn lač, “Kkuh kơ ih, Ơ pô Aê Diê pap. Khua Yang dôk mbĭt hŏng ih!” 29Hmư̆ klei blŭ anăn, H'Mari rŭng răng snăk, leh anăn bi mĭn hlăm ai tiê ñu ya jing klei kkuh msĕ snăn. 30Dĭng buăl jăk lač kơ ñu, “Đăm huĭ ôh, Ơ H'Mari, kyuadah ih mâo leh klei pap ti anăp Aê Diê. 31 Nĕ anei, ih srăng ba tian leh anăn kkiêng kơ sa čô anak êkei, ih srăng bi anăn Ñu Yêsu. 32 Ñu srăng jing prŏng, leh anăn arăng srăng pia Ñu Anak Pô Ti Dlông Hĭn, leh anăn Khua Yang Aê Diê srăng brei kơ Ñu jhưng mtao aê Ñu Y-Đawit. 33Ñu srăng kiă kriê găp djuê Y-Yakôp nanao hlŏng lar, leh anăn ƀuôn ala mtao Ñu amâo srăng thâo tuč ôh.”
34H'Mari lač kơ dĭng buăl jăk, “Si klei anăn dưi truh lĕ, kyuadah kâo jing mniê êra ka tuôm hŏng êkei ôh?” 35Dĭng buăl jăk lač kơ ñu, “Yang Mngăt Jăk srăng hriê kơ ih, leh anăn klei myang Pô Ti Dlông Hĭn srăng guôm ih; kyuanăn anak doh jăk ih srăng kkiêng arăng srăng pia Anak Aê Diê. 36Nĕ anei, sa čô mniê găp djuê ih, H'Êlisabet, ba tian leh kơ sa čô anak êkei êjai gơ̆ mduôn, pô arăng pia mniê plao, gơ̆ ba tian mâo năm mlan leh. 37 Kyuadah amâo mâo sa mta mnơ̆ng Aê Diê amâo dưi ngă ôh.” 38H'Mari lač, “Nĕ anei, kâo jing dĭng buăl mniê kơ Khua Yang. Brei klei anăn truh kơ kâo tui si klei ih blŭ leh.” Leh anăn dĭng buăl jăk kbiă đuĕ.

H'Mari Nao Čhưn kơ H'Êlisabet

39Hlăk anăn H'Mari kgŭ nao hŏng klei ruăt kơ sa boh ƀuôn hlăm čar kngư Yuđa. 40Ñu mŭt sang Y-Sakari leh anăn kkuh kơ H'Êlisabet. 41Tơdah H'Êlisabet hmư̆ klei H'Mari kkuh, anak hlăm tian gơ̆ kpư̆, leh anăn H'Êlisabet bŏ hŏng Yang Mngăt Jăk. 42Gơ̆ ur kraih, “Ih mâo klei jăk jĭn hĭn kơ phung mniê mkăn, leh anăn jăk mơak yơh kơ anak mơ̆ng tian prôč ih! 43Si ngă klei yuôm anei truh kơ kâo, tơl amĭ Khua Yang kâo hriê kơ kâo? 44Kyuadah tơdah kâo hmư̆ klei ih kkuh kơ kâo, anak hlăm tian kâo kpư̆ hơ̆k. 45Jăk mơak yơh kơ mniê đăo, kyuadah jih klei Khua Yang hưn leh kơ ñu srăng mâo klei bi truh sĭt.”

Klei H'Mari Mmuñ Bi Mni kơ Aê Diê

46Leh anăn H'Mari lač:
  “Mngăt kâo mpŭ mni kơ Khua Yang,
   47ai mĭn kâo mâo klei mơak hlăm Aê Diê Pô Bi Mtlaih kâo.
  48 Kyuadah Ñu dlăng leh kơ klei luă gŭ dĭng buăl mniê Ñu,
   nĕ anei, mơ̆ng hruê anei kơ anăp
   mnuih jih jang ênuk srăng pia kơ kâo pô mâo klei jăk jĭn.
  49Kyuadah Pô Myang snăk ngă leh klei yuôm bhăn kơ kâo,
   anăn Ñu jing doh jăk.
  50Klei Ñu pap truh kơ phung huĭ mpŭ kơ Ñu hlăm jih jang ênuk.
  51Ñu bi êdah leh klei ktang hŏng păl Ñu,
   Ñu suôt leh phung mâo ai tiê klei mĭn mgao.
  52Ñu mdlưh leh phung ktang mơ̆ng jhưng mtao digơ̆,
   leh anăn bi mđĭ phung thâo luă gŭ.
  53Ñu bi trei phung êpa hŏng mnơ̆ng jăk,
   leh anăn Ñu suôt phung mdrŏng wĭt kngan mang.
  54Ñu đru leh dĭng buăl Ñu phung Israel
   êjai Ñu hdơr kơ klei Ñu pap,
  55 tui si Ñu blŭ leh kơ phung aê drei,
   kơ Y-Abraham leh anăn kơ phung anak čô gơ̆ hlŏng lar.”
56H'Mari dôk mbĭt hŏng H'Êlisabet hlăm brô tlâo mlan, leh anăn ñu lŏ wĭt kơ sang ñu pô.

Klei Kkiêng kơ Y-Yôhan Pô Ngă Ƀaptem

57Hruê H'Êlisabet đih pui truh leh. Ñu kkiêng kơ sa čô anak êkei. 58Phung riêng gah ñu leh anăn phung găp djuê ñu hmư̆ kơ Khua Yang bi êdah leh kơ ñu klei pap prŏng, leh anăn digơ̆ hơ̆k mơak mbĭt hŏng ñu. 59 Ti hruê tal sa păn diñu hriê čiăng khăt klĭt anak anăn leh anăn bi anăn gơ̆ Y-Sakari tui si anăn ama gơ̆. 60Ƀiădah amĭ gơ̆ lač, “Hơăi! Srăng bi anăn gơ̆ Y-Yôhan.” 61Diñu lač kơ H'Êlisabet, “Amâo mâo ôh sa čô hlăm găp djuê ih mâo anăn msĕ snăn.” 62Snăn diñu bi hmô hŏng kngan kơ ama gơ̆ čiăng thâo hlei ñu čiăng bi anăn gơ̆. 63Y-Sakari akâo sa pŏk mdhă, leh anăn čih snei: “Anăn gơ̆ Y-Yôhan.” Jih jang diñu bi kngăr. 64Mông anăn mtam Y-Sakari ha ƀăng êgei, êlah ñu tlaih, ñu blŭ leh anăn mpŭ mni kơ Aê Diê. 65Jih jang phung riêng gah diñu huĭ. Arăng yăl dliê jih klei anăn tar ƀar čar kngư Yuđa. 66Jih jang phung hmư̆ klei anăn djă pioh hlăm ai tiê diñu leh anăn lač, “Ya anak anăn srăng jing?” leh anăn kngan Khua Yang dôk mbĭt hŏng gơ̆.

Klei Y-Sakari Hưn Êlâo

67Ama gơ̆ Y-Sakari bŏ hŏng Yang Mngăt Jăk leh anăn hưn êlâo snei:
  68“Mpŭ mni kơ Khua Yang, Aê Diê Israel,
   kyuadah Ñu čhưn leh anăn bi tui leh phung ƀuôn sang Ñu,
  69leh anăn Ñu bi truh leh kơ drei sa čô Pô Bi Mtlaih Myang
   hlăm sang dĭng buăl Ñu Y-Đawit,
  70Msĕ Ñu hưn leh mơ̆ng ênuk đưm
   hŏng ƀăng êgei phung khua pô hưn êlâo doh jăk Ñu,
  71čiăng kơ drei tlaih mơ̆ng phung roh hŏng drei,
   leh anăn mơ̆ng kngan jih jang phung bi êmut kơ drei;
  72čiăng bi sĭt klei pap Ñu ƀuăn leh kơ phung aê drei,
   leh anăn hdơr klei bi mguôp doh jăk Ñu ngă leh,
  73Tui si klei Ñu kat asei leh hŏng aê drei Y-Abraham,
  74leh Ñu bi êngiê drei mơ̆ng kngan phung roh,
   Ñu srăng brei kơ drei dưi mă bruă kơ Ñu amâo huĭ ôh,
  75hŏng klei doh jăk leh anăn klei kpă ênô ti anăp Ñu
   jih jang hruê drei dôk hdĭp.
  76 Bi ih, Ơ anak điêt, arăng srăng pia ih khua pô hưn êlâo kơ Pô Ti Dlông Hĭn,
   kyuadah ih srăng êbat ti anăp Khua Yang čiăng mkra êlan Ñu,
  77čiăng brei kơ phung ƀuôn sang Ñu klei thâo săng kơ klei bi mtlaih
   hŏng klei pap brei klei soh diñu,
  78kyua klei pap êdu êun Aê Diê drei,
   hŏng klei Yang Hruê srăng ƀlĕ truh kơ drei mơ̆ng adiê ti dlông,
  79 čiăng mtrang bi mngač phung dôk gŭ hlăm klei mmăt
   leh anăn hlăm êyui klei djiê,
   čiăng atăt drei êbat hlăm êlan klei êđăp ênang.”
80Hđeh điêt anăn hriê kơ prŏng, leh anăn ai mĭn ñu jing ktang. Ñu dôk hlăm kdrăn tač tơl truh hruê bi êdah ñu pô kơ phung Israel.