31

1Thaum tej no tiav tag huvsi cov Yixayee sawvdaws uas tuaj rau hauv Yeluxalees tawm mus rau Yuda tej moos thiab tsoo tej ncej teev dab ua tej dwb daim thiab ntov tej ncej dab Asela vau tag, thiab tsoo tej chaw siab teev dab thiab tej thaj thoob plaws Yuda thiab Npeeyamee thiab Efa‑i thiab Manaxe tebchaws pob tag, mus txog thaum ua rau txhua yam puam tsuaj tag. Cov Yixayee sawvdaws li rov mus rau lawv tej moos nyias mus txog nyias vaj nyias tsev.

Tej uas pub rau cov pov thawj thiab cov Levi

2Hexekhiya faib cov pov thawj thiab cov Levi ua tej pab tej pawg, nyias nrog nyias pab raws li tej haujlwm uas cov pov thawj thiab cov Levi ua, yog ua kevcai hlawv xyeem thiab ua kevcai xyeem sib raug zoo thiab ua haujlwm ntawm Yawmsaub lub chaw nyob tej rooj loog thiab ua tsaug thiab qhuas Vajtswv. 3Vajntxwv pub nws li qhov txhia chaw ua tej uas ua kevcai hlawv xyeem thaum tagkis thiab thaum yuav tsaus ntuj thiab hlawv rau hnub Xanpatau thiab hnub hli xiab thiab hlawv rau tej kevcai uas teem cia, raws li uas sau cia rau hauv Yawmsaub txoj kevcai. 4Nws hais rau cov pejxeem uas nyob hauv Yeluxalees kom pub cov pov thawj thiab cov Levi li feem raws li uas teem cia lawd rau lawv, xwv lawv thiaj rau siab ua haujlwm raws li Yawmsaub txoj kevcai qhia. 5Thaum nws tej lus nrov ncha mus, cov Yixayee kuj pub tej uas hais no ntau kawg li, yog thawj phaum qoob thiab cawv txiv hmab, roj, zib ntab thiab txhua yam uas tau hauv teb ntau kawg li, thiab coj ib feem kaum hauv txhua yam tuaj ntau nplua mias. 6Cov Yixayee thiab cov Yuda uas nyob hauv Yuda tej moos kuj coj ib feem kaum hauv tej nyuj tej yaj thiab hauv tej uas muab pub kiag cais ua yam uas dawb huv rau Yawmsaub uas yog lawv tus Vajtswv, mas khaws tau tej niag pawg. 7Lawv cuab sau ua tej pawg thaum lub peb hlis mus txog lub xya hli li tiav tag. 8Thaum Hexekhiya thiab cov thawj tuaj pom tej pawg ntawd lawv kuj qhuas Yawmsaub thiab foom koob hmoov rau Yawmsaub haiv neeg Yixayee. 9Hexekhiya thiaj nug cov pov thawj thiab cov Levi txog tej niag pawg ntawd. 10Tus tuam pov thawj hlob Axaliya uas yog Xadau caj ces teb nws tias, “Txij thaum lawv coj tej qhov txhia chaw pub rau hauv Yawmsaub lub tuam tsev mas peb tau noj tsau npo thiab tseem muaj seem ntau, vim yog Yawmsaub foom koob hmoov rau nws cov neeg, peb thiaj tshuav seem ntau npaum li no.”
11Ces Hexekhiya txawm hais kom lawv npaj tej chav hauv Yawmsaub lub tuam tsev. Lawv thiaj npaj chaw. 12Thiab lawv kuj ua ncaj ncees sau tej uas sawvdaws pub thiab tej uas yog ib feem kaum thiab tej uas pub kiag ua yam uas dawb huv los rau hauv. Tus thawj uas saib xyuas tej ntawd yog Khaunaniya uas yog ib tug Levi, thiab nws tus kwv Sime‑i ua tus pab nws. 13Vajntxwv Hexekhiya thiab Axaliya uas yog tus thawj hauv Vajtswv lub tuam tsev tsa Yehi‑ee, Axaxiya, Nahaj, Axahee, Yelimau, Yauxanpa, Eli‑ee, Imakhiya, Maha thiab Npenaya saib xyuas haujlwm pab Khaunaniya thiab nws tus kwv Sime‑i. 14Ina tus tub Khaule uas yog ib tug Levi thiab zov lub rooj loog sab hnub tuaj, ua tus uas saib xyuas tej uas luag zoo siab coj tuaj pub rau Vajtswv, thiab faib tej uas muab pub rau Yawmsaub thiab tej uas xyeem dawb huv kawg nkaus. 15Mas hauv cov pov thawj tej moos Edee, Meeyamee, Yesua, Semaya, Amaliya thiab Sekhaniya ua ncaj ncees pab Khaule faib rau lawv cov kwvtij tus hlob tus yau sib npaug zos raws li lawv tej pab tej pawg. 16Lawv faib rau cov txivneej uas hnub nyoog peb xyoos rov saud txhua tus uas nkag rau hauv Yawmsaub lub tuam tsev raws li lawv pawg muaj haujlwm ua rau hnub ntawd, yog mus ua haujlwm raws li lawv pawg li feem ua, tsuas yog tseg tsis faib rau cov uas nce npe rau hauv lawv tej cum. 17Cov pov thawj nce npe ua pab ua pawg raws li lawv tej cum, cov Levi uas hnub nyoog nees nkaum xyoo rov saud kuj nce npe raws lawv tej haujlwm thiab raws li lawv tej pab tej pawg. 18Cov pov thawj mas lawv tej menyuam yaus lawv tej pojniam tej tub tej ntxhais tag nrho lawv cov neeg sawvdaws kuj nce npe ua ke, rau qhov cov pov thawj mob siab tswj lawv tus kheej kom dawb huv mus li. 19Hais txog Aloo caj ces uas ua pov thawj uas nyob hauv tej zej zog ib ncig tej moos, mas muaj cov txivneej hauv txhua lub moos uas muaj npe ua tus faib qhov txhia chaw rau txhua tus txivneej uas yog cov pov thawj li neeg thiab faib rau txhua tus Levi uas nce npe lawd.
20Hexekhiya ua li no thoob plaws Yuda tebchaws, thiab nws ua yam uas zoo thiab raug cai thiab ncaj ncees rau ntawm Yawmsaub uas yog nws tus Vajtswv xubntiag. 21Thiab txhua yam haujlwm uas nws ua pab Vajtswv tej haujlwm hauv lub tuam tsev thiab qhov uas ua raws li txoj kevcai thiab Vajtswv tej lus nkaw, uas yog nrhiav nws tus Vajtswv, nws ua kawg siab kawg ntsws, nws thiaj vam meej.

31

Những cải cách của vua Ê-xê-chia

1Khi lễ Vượt Qua đã được kỷ niệm xong thì toàn dân Ít-ra-en trong Giê-ru-sa-lem đi đến các thị trấn trong Giu-đa. Họ đập phá những trụ đá dùng thờ thần ngoại quốc. Họ giật sập các tượng A-sê-ra và phá hủy các bàn thờ và nơi thờ phụng các thần ngoại quốc ở Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im, và Ma-na-xe. Sau khi họ đã tiêu hủy những thứ đó rồi thì dân Ít-ra-en trở về nhà mình.
2Vua Ê-xê-chia chỉ định các toán thầy tế lễ và người Lê-vi vào các nhiệm vụ đặc biệt. Họ phải dâng của lễ thiêu, của lễ thân hữu, để thờ phụng, và dâng lời cảm tạ cùng ca ngợi nơi cổng của nhà Chúa. 3Vua Ê-xê-chia dâng một số gia súc của mình làm của lễ thiêu. Các của lễ nầy được dâng mỗi sáng mỗi chiều, vào những ngày Sa-bát, ngày Trăng Mới, và các cuộc lễ khác theo như lời Giáo Huấn của Chúa. 4Vua Ê-xê-chia truyền cho dân chúng sống ở Giê-ru-sa-lem dâng cho các thầy tế lễ phần thuộc riêng về họ để các thầy tế lễ và người Lê-vi có thể dành trọn thì giờ lo cho việc Giáo Huấn của Chúa. 5Khi lệnh vua vừa được ban ra cho người Ít-ra-en thì ai nấy đều rộng rãi dâng hiến phần ngũ cốc đầu mùa, rượu mới, dầu, mật ong, và mọi thứ họ trồng trong ruộng nương. Họ mang một số lương rất lớn, một phần mười của mọi thứ. 6Dân Ít-ra-en và Giu-đa sống trong xứ Giu-đa cũng mang một phần mười gia súc và chiên cừu, một phần mười các vật thánh để dâng cho CHÚA là Thượng Đế mình, và chất thành từng đống.
7Dân chúng bắt đầu mang đến hàng đống phẩm vật vào tháng ba và đến tháng bảy mới xong.
8Khi vua Ê-xê-chia và các sĩ quan đến thấy các đống ấy thì ca ngợi CHÚA và dân Ngài, tức dân Ít-ra-en.
9Vua Ê-xê-chia hỏi các thầy tế lễ và người Lê-vi về các đống đồ ấy. 10A-xa-ria, thầy tế lễ cả từ gia đình Xa-đốc, thưa với vua, “Từ khi dân chúng bắt đầu mang của lễ dâng hiến đến đền thờ CHÚA, chúng tôi dư ăn và còn thừa lại vì CHÚA đã ban phước cho dân Ngài. Vì thế đây là những đồ dâng hiến còn dư lại.”
11Sau đó vua Ê-xê-chia ra lệnh chuẩn bị các kho chứa trong đền thờ CHÚA. Thế là lệnh này được thực hiện. 12Rồi các thầy tế lễ mang vào những của lễ và những vật dâng cho CHÚA cùng một phần mười các thứ dân chúng hiến dâng. Cô-na-nia, người Lê-vi, coi sóc các món nầy, và Si-mê-i, em ông, làm phụ tá. 13Cô-na-nia và Si-mê-i, em ông, làm trưởng các giám thị sau đây: Giê-hi-ên, A-xa-xia, Na-hát, A-xa-hên, Giê-ri-mốt, Giô-xa-bát, Ê-li-ên, Ích-ma-kia, Ma-hát, và Bê-nai-gia. Vua Ê-xê-chia và A-xa-ria, viên chức quản lý đền thờ Thượng Đế đã chọn lựa họ. 14Cô-rê, con Im-na, người Lê-vi phụ trách các lễ vật đặc biệt dân chúng dâng cho Thượng Đế. Ông cũng chịu trách nhiệm phân phát những vật phẩm đóng góp cho CHÚA và các món dâng thánh. Cô-rê là người giữ Cửa Đông. 15Ê-đen, Mi-ni-a-min, Giê-sua, Sê-mai-gia, A-ma-ria, và Sê-ca-nia phụ giúp Cô-rê trong các thị trấn mà các thầy tế lễ cư ngụ. Họ phân phát số lễ vật thu được cho các nhóm thầy tế lễ khác, không phân biệt già trẻ. 16Từ số lễ vật đó ấy, họ cũng cấp cho những người thuộc phái nam từ ba tuổi trở lên có tên trong gia phổ của người Lê-vi. Họ phải vào đền thờ CHÚA để lo công việc hằng ngày, mỗi nhóm có nhiệm vụ riêng. 17Các thầy tế lễ được cấp phần của mình trong số thu được, theo gia đình đã được liệt kê trong gia phổ. Những người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên được cấp phần trong số lễ vật dân chúng đóng góp, dựa theo trách nhiệm của họ và theo nhóm. 18Các con nhỏ của người Lê-vi, vợ, con trai và con gái cũng được cấp phần trong số thu góp được. Việc cung cấp như thế được thực hiện cho tất cả các người Lê-vi được liệt kê theo gia phổ, vì họ luôn luôn dọn mình sẵn sàng để phục vụ CHÚA. 19Một số con cháu A-rôn, các thầy tế lễ, sống trong các nông trại gần các thị trấn hay ngay trong thị trấn. Những người thuộc phái nam được chọn theo tên để cấp một phần các lễ vật cho các thầy tế lễ nầy. Tất cả các đàn ông và những ai có tên trong gia phổ của người Lê-vi đều nhận được phần của mình trong số lễ vật.
20Đó là điều vua Ê-xê-chia làm khắp xứ Giu-đa. Vua làm điều tốt, đúng và vâng lời trước mặt CHÚA là Thượng Đế mình. 21Ê-xê-chia hết sức vâng lời Thượng Đế trong việc phục vụ đền thờ Ngài, và ông cố gắng vâng theo lời giáo huấn và mệnh lệnh của Thượng Đế. Ông hết lòng lo công việc Thượng Đế cho nên ông rất thành công.