1

DIỄN VĂN THỨ NHẤT CỦA MÔ-SÊ

Nhắc Lại Biến Cố ở Hô-rếp

1 Ðây là những lời Mô-sê đã nói với toàn dân I-sơ-ra-ên bên kia Sông Giô-đanh, trong đồng hoang, ở đồng bằng đối ngang Su-phơ, khoảng giữa Pa-ran và Tô-phên, La-ban, Ha-xê-rốt, và Ði-xa-háp. 2 Từ Hô-rếp đi theo ngả đường Núi Sê-i-rơ phải mất mười một ngày mới đến Ca-đe Ba-nê-a. 3 Thời gian trôi qua, vào ngày mồng một, tháng Mười Một, năm thứ bốn mươi, Mô-sê nói với dân I-sơ-ra-ên những gì CHÚA đã truyền cho ông phải nói với họ. 4 Ông làm việc ấy sau khi đã đánh bại Vua Si-hôn của dân A-mô-ri, trị vì ở Hếch-bôn, và Vua Óc của dân Ba-san, trị vì ở Ách-ta-rốt và Ét-rê.
5 Khi còn ở bên kia Sông Giô-đanh, trong xứ Mô-áp, Mô-sê đã bắt đầu giảng dạy luật pháp nầy như sau:
6 “CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng ta, đã phán với chúng ta tại Hô-rếp rằng, ‘Các ngươi đã ở tại núi nầy khá lâu. 7 Hãy nhổ trại và lên đường. Hãy đi về hướng núi của dân A-mô-ri và về các vùng phụ cận của chúng trong đồng bằng, đến các miền cao nguyên và các miền đồng bằng. Hãy vào tận miền nam và đến dọc miền duyên hải. Hãy tiến về xứ của dân Ca-na-an và về hướng Li-băng. Hãy đi đến tận Sông Cả, tức Sông Ơ-phơ-rát.
8 Nầy, Ta ban xứ đó cho các ngươi. Hãy đi vào và chiếm lấy xứ Ta đã thề ban cho tổ tiên các ngươi là Áp-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp, cùng ban cho dòng dõi của họ.’
9Lúc ấy tôi đã nói với anh chị em rằng, ‘Một mình tôi không thể mang nổi anh chị em. 10CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã cho anh chị em sinh sôi nảy nở ra nhiều. Kìa, ngày nay anh chị em đã đông như sao trên trời. 11Cầu xin CHÚA, Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em, làm cho anh chị em gia tăng gấp ngàn lần hơn và ban phước cho anh chị em như Ngài đã hứa với anh chị em. 12Còn phần tôi, làm sao một mình tôi có thể kham nổi trách nhiệm nặng nề trong việc xét xử các vụ tranh tụng của anh chị em? 13Hãy chọn giữa các chi tộc của anh chị em những người khôn ngoan, tài trí, và có tiếng tốt để làm những người lãnh đạo của anh chị em.” 14Anh chị em đã trả lời với tôi, “Kế hoạch ông đề nghị thật là tốt.” 15Vì thế tôi đã lấy những thủ lãnh từ các chi tộc của anh chị em, những người khôn ngoan và có tiếng tốt; tôi đã lập họ làm những người lãnh đạo của anh chị em để họ làm những người chỉ huy ngàn người, những người chỉ huy trăm người, những người chỉ huy năm mươi người, những người chỉ huy mười người, và những quan chức trong các chi tộc của anh chị em. 16Lúc ấy tôi đã truyền cho các thẩm phán của anh chị em rằng, “Hãy lắng nghe cho tường tận sự tranh tụng của anh chị em mình, rồi phán xét công bình giữa người nầy với người kia, bất kể những người đó là công dân hay ngoại kiều. 17Anh chị em chớ thiên vị trong khi xét xử. Bất kể vụ tranh tụng đó nhỏ hay lớn, anh chị em phải nghe hai bên cho thấu đáo. Dù ai có hăm dọa gì, anh chị em cũng đừng sợ, vì anh chị em thay mặt Ðức Chúa Trời mà xét xử. Những vụ kiện nào anh chị em thấy quá khó xử, hãy chuyển vụ kiện đó đến tôi, và tôi sẽ nghe cho.’
18Vậy lúc đó tôi đã truyền cho anh chị em những điều anh chị em phải làm.

Dân I-sơ-ra-ên Không Chịu Vào Ðất Hứa

19Lúc đó, theo lệnh của CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng ta, chúng ta đã rời Hô-rếp mà đi về miền đồi núi của dân A-mô-ri. Chúng ta đã đi qua sa mạc mênh mông và ghê rợn mà anh chị em đã thấy. Cuối cùng, chúng ta cũng đã đến được Ca-đe Ba-nê-a. 20Lúc đó tôi nói với anh chị em, ‘Chúng ta đã đến được miền đồi núi của dân A-mô-ri, xứ mà CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng ta, sẽ ban cho chúng ta. 21Hãy xem, trước mặt là xứ mà CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, sẽ ban cho anh chị em. Hãy đi lên và chiếm lấy như CHÚA, Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em, đã hứa ban cho anh chị em. Ðừng sợ hãi và đừng nản lòng.’
22Bấy giờ tất cả anh chị em đều đến nói với tôi, ‘Xin chúng ta hãy cử người đi do thám xứ cho chúng ta, rồi về báo lại cho chúng ta biết nên chọn ngả nào để tiến lên và các thành nào sẽ tiến chiếm.’ 23Tôi thấy đề nghị đó rất tốt, nên đã chọn mười hai người trong vòng anh chị em, mỗi người đại diện một chi tộc. 24Họ đã ra đi, lên vùng cao nguyên, rồi sau đó đến Thung Lũng Ếch-côn. Họ đã do thám xứ, 25và lấy một ít sản phẩm của xứ, đem xuống cho chúng ta. Họ đã báo lại cho chúng ta biết rằng, ‘Xứ đó quả là một xứ màu mỡ mà CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng ta, ban cho chúng ta.’
26Tuy nhiên anh chị em đã không muốn đi lên chiếm xứ. Anh chị em đã nổi loạn chống lại mạng lịnh của CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em. 27Anh chị em đã lầm bầm trong trại mình và nói rằng, ‘Ấy là vì CHÚA ghét chúng ta, nên đã đem chúng ta ra khỏi đất Ai-cập, hầu trao chúng ta vào tay dân A-mô-ri, để chúng giết chúng ta. 28Chúng ta đi đâu bây giờ? Những anh em chúng ta đã làm cho chúng ta ngã lòng khi báo cáo rằng, “Dân trong xứ mạnh hơn và cao lớn hơn chúng ta; thành trì của họ rộng lớn, kiên cố, và cao đến tận trời! Chúng tôi quả đã thấy các con cháu của A-na-kim.”’
29Tôi đã nói với anh chị em, ‘Ðừng ngán chúng và đừng sợ chúng. 30CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, Ðấng đi trước anh chị em, sẽ chiến đấu cho anh chị em, như Ngài đã làm cho anh chị em ở Ai-cập mà chính mắt anh chị em đã thấy. 31Rồi trong đồng hoang, nơi anh chị em đã thấy rõ thể nào CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã bồng ẵm anh chị em như một người bồng ẵm con thơ suốt những chặng đường anh chị em đã đi qua, cho đến khi anh chị em đến nơi nầy. 32Dù tôi đã nói như thế, nhưng anh chị em vẫn nhất định không chịu tin cậy CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, 33Ðấng suốt đường luôn đi trước anh chị em để tìm những chỗ cho anh chị em đóng trại, Ðấng dùng trụ lửa ban đêm và dùng trụ mây ban ngày để chỉ cho anh chị em con đường anh chị em phải đi.’

Hình Phạt cho Sự Phản Loạn

34Khi CHÚA nghe những lời anh chị em nói, Ngài đã nổi thịnh nộ và thề, 35‘Không một kẻ nào trong những kẻ nầy, tức không một kẻ nào trong thế hệ xấu xa nầy, sẽ thấy xứ màu mỡ mà Ta đã thề ban cho tổ tiên của chúng nó, 36ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê. Nó sẽ trông thấy xứ đó. Ta sẽ ban cho nó vùng đất nào nó đặt chân đến, bởi vì nó đã trung thành với CHÚA một cách tuyệt đối.’ 37Ngay cả đối với tôi, vì cớ anh chị em mà CHÚA đã giận tôi mà rằng, ‘Ngươi cũng không được vào đó. 38Nhưng Giô-sua con trai Nun, phụ tá của ngươi, sẽ vào đó. Hãy khuyến khích nó, vì nó là người sẽ lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên vào chiếm lấy xứ ấy. 39Còn đối với các con nhỏ của các ngươi, những kẻ mà các ngươi cho rằng chúng sẽ trở thành chiến lợi phẩm cho quân thù, tức các con thơ của các ngươi, những kẻ mà ngày ấy vẫn chưa biết phân biệt thế nào là đúng hay sai, chúng sẽ vào đó. Ta sẽ ban xứ đó cho chúng, và chúng sẽ chiếm lấy xứ đó. 40Nhưng về phần các ngươi, các ngươi phải đi ngược trở lại vào đồng hoang, về hướng Hồng Hải.’
41Anh chị em đã nói với tôi, ‘Chúng tôi đã phạm tội đối với CHÚA! Bây giờ chúng tôi sẵn sàng đi lên và chiến đấu như CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, đã truyền cho chúng tôi.’ Rồi anh chị em mang binh khí vào, tưởng rằng đi lên cao nguyên đánh trận là việc dễ dàng. 42Nhưng CHÚA đã nói với tôi, ‘Bảo chúng đừng đi lên và đừng tiến đánh, vì Ta không ở giữa các ngươi, bằng không các ngươi sẽ bị quân thù đánh bại.’ 43Mặc dù tôi đã bảo anh chị em như thế, nhưng anh chị em chẳng chịu nghe lời. Anh chị em đã chống lại lệnh của CHÚA mà cứ đi lên cao nguyên. 44Dân A-mô-ri sống trên cao nguyên đó đã kéo ra đánh bại anh chị em và rượt đuổi anh chị em như ong rượt đuổi. Họ đánh bại anh chị em ở Sê-i-rơ cho đến tận Họt-ma. 45Khi anh chị em trở về và khóc than trước mặt CHÚA, CHÚA chẳng thèm nghe tiếng than khóc của anh chị em và cũng không thèm để ý gì đến anh chị em. 46Vậy anh chị em đã ở lại Ca-đe khá lâu như anh chị em đã biết.

1

Tơlơi Pơđar Kiăng Đuaĭ Mơ̆ng Čư̆ Hôrêb

1Amăng sŏp hră anai jing khul tơlơi pơhiăp Môseh pơhiăp hăng abih bang ƀing Israel amăng tơdron ha̱r gah ngŏ̱ kơ krong Yurdan, anŭn jing amăng tring Arabah, jĕ ƀơi anih Sup, kơplăh wăh plei pơnăng Pharan gah anai hăng plei pơnăng Tôphel, Laban, Hazerôt laih anŭn anih Dizahab gah adih. 2Tơdang ƀing gơñu đuaĭ laih mơ̆ng čư̆ Hôrêb, ƀing gơñu rơbat kơnơ̆ng pluh-sa hrơi truh pơ anih Khades-Barnea mơ̆ng jơlan čư̆ kơdư tring Seir. 3Samơ̆ amăng thŭn tal pă̱pluh tơdơi kơ ƀing gơñu đuaĭ mơ̆ng čư̆ Hôrêb, čơdơ̆ng mơ̆ng hrơi tal sa blan tal pluh-sa, Môseh pơhaih kơ ƀing Israel abih bang tơlơi Yahweh hơmâo pơđar laih kơ ñu kiăng kơ ƀing gơ̆ ngă. 4Tơlơi anai jing tơdơi kơ Môseh blah dưi hĭ laih Sihôn pơtao ƀing Amôr, jing pô wai lăng amăng plei pơnăng Hesbôn laih anŭn dưi hĭ laih Ôg pơtao lŏn čar Basan, jing pô wai lăng amăng plei pơnăng Astarôt hăng Edrei.
5Gah ngŏ̱ kơ Yurdan amăng guai čar Môab, ƀơi anih anai yơh Môseh čơdơ̆ng pơblang tơlơi juăt tui anai: 6Yahweh Ơi Adai ta hơmâo pơhiăp laih hăng ƀing ta ƀơi čư̆ Hôrêb tui anai, “Ƀing gih hơmâo dŏ sui laih ƀơi jĕ čư̆ anai. 7Rơmet set bĕ anih jưh hăng kơsung mŭt bĕ amăng anih tring čư̆ ƀing Amôr laih anŭn nao bĕ amăng anih tring abih bang ƀing mơnuih re̱ng gah amăng tring Arabah, amăng khul čư̆, bŏl čư̆ gah yŭ̱, amăng anih Negewơ kơtuai ha̱ng ia Rơsĭ Prŏng, truh pơ anih lŏn ƀing Kanaan laih anŭn truh pơ khul čư̆ Lebanôn, ataih truh pơ ia krong prŏng, jing krong Huphrat anŭn. 8Anai nê, Kâo hơmâo brơi laih abih bang anih lŏn anai kơ ƀing gih. Mŭt bĕ hăng mă tŭ anih lŏn Kâo hơmâo ƀuăn brơi laih kơ ƀing ơi adon gih, jing kơ Abraham, Isa̱k laih anŭn kơ Yakôb, laih anŭn kơ ƀing kơnung djuai gơñu pơanăp mơ̆n.”

Tơlơi Ruah Ƀing Khua Djă̱ Akŏ

(Tơbiă 18:13-27)

9Môseh pơhiăp dơ̆ng tui anai: Ƀơi mông anŭn kâo laĭ kơ ƀing ama gih, “Hơjăn kâo ƀu anăm git gai ƀing gih ôh. 10Yahweh Ơi Adai ta hơmâo pơlar ƀing ta lu jai, tui anŭn hrơi anai ƀing ta lu kar hăng khul pơtŭ amăng adai. 11Rơkâo kơ Yahweh, Ơi Adai ƀing ơi adon ta, pơlar lu jai ƀing ta truh kơ rơbâo wơ̆t lu hloh laih anŭn bơni hiam kơ ƀing ta kar hăng Ñu hơmâo ƀuăn laih! 12Samơ̆ hiư̆m kâo anăm glăm mă abih bang tơhơnal tơlơi kơtraŏ laih anŭn tơlơi brŏk ƀuăh gih kơ kâo pô lĕ? 13Ruah bĕ đơđa ƀing đah rơkơi rơgơi, thâo hluh laih anŭn arăng pơpŭ mơ̆ng rĭm kơnung djuai gih, tui anŭn kâo či pơjing ƀing gơñu ngă khua kơ ƀing gih.”
14Ƀing gih laĭ glaĭ kơ kâo, “Hơget tơlơi ih pơkô̆ pơjing jing hiam yơh.”
15Tui anŭn, kâo iâu rai ƀing djă̱ akŏ ƀing kơnung djuai gih, ƀing thâo hluh laih anŭn ƀing mơnuih arăng pơpŭ pơyom; giŏng anŭn jao brơi ƀing gơñu tơlơi dưi gah ngŏ kơ ƀing gih jing khua git gai kơ tơpul rơbâo, kơ tơpul rơtuh, kơ tơpul rơmapluh laih anŭn kơ tơpul pluh čô. Kâo ăt jao brơi ƀing khua moa kơ rĭm kơnung djuai mơ̆n. 16Giŏng anŭn, kâo jao brơi kơ ƀing gơñu phat kơđi amăng mông anŭn tui anai, “Hơmư̆ bĕ khul tơlơi pơrơjăh tŏng krah ƀing ayŏng adơi gih laih anŭn phat kơđi djơ̆ lăp, wơ̆t tơdah tơlơi pơrơjăh tŏng krah ƀing Israel ƀôdah tŏng krah sa čô Israel hăng sa čô tuai. 17Anăm pơrơđah be̱r glông amăng tơlơi phat kơđi ôh; hơmư̆ bĕ abih bang tơlơi anet ƀôdah prŏng kar kaĭ. Anăm huĭ kơ hlơi pô ôh, yuakơ tơlơi phat kơđi gih jing tơbiă rai mơ̆ng Ơi Adai yơh. Hơget bruă gleh tơnap ƀing gih ba rai bĕ pơ kâo laih anŭn kâo či hơmư̆ bruă anŭn yơh.”
18Laih anŭn ƀơi mông anŭn kâo ăt ruai kơ ƀing ama gih rĭm bruă ƀing gơñu khŏm ngă mơ̆n.

Pơkiaŏ Nao Ƀing Kơnuă

(Yap 13:1-33)

19Môseh pơhiăp dơ̆ng tui anai: Giŏng anŭn, kar hăng Yahweh pơđar laih kơ ƀing gơmơi, ƀing gơmơi tơbiă nao mơ̆ng čư̆ Hôrêb pơ tring anih čư̆ ƀing Amôr laih anŭn gih pô ăt ƀuh mơ̆n abih bang anih hông hang huĭ hyưt amăng tơdron ha̱r anŭn. Tơdang ƀing ta nao jĕ anih Khades-Barnea. 20Giŏng anŭn, kâo pơhiăp hăng ƀing ama gih, “Ƀing ta hơmâo rai truh laih pơ anih tring čư̆ ƀing Amôr, jing anih Yahweh Ơi Adai ta či brơi kơ ƀing ta. 21Anai nê, Yahweh Ơi Adai hơmâo brơi laih kơ ƀing ta anih lŏn anai. Đĭ nao hăng mă tŭ bĕ anih anai tui hăng Yahweh, jing Ơi Adai ƀing ơi adon ta, pơtă laih kơ ƀing gih. Anăm huĭ hyưt ôh; anăm pơtah hơtai ôh.”
22Giŏng anŭn, abih bang ƀing gih rai pơ kâo hăng laĭ, “Brơi bĕ ƀing kơnuă kiăng kơ nao kơsem lăng anih lŏn anai kơ ƀing ta laih anŭn ba glaĭ tơlơi pơthâo kơ jơlan ƀing ta či nao hăng khul plei pơnăng ƀing ta či mŭt nao anŭn.”
23Tơlơi pơmĭn anŭn jing pơmơak kơ kâo yơh; tui anŭn kâo ruah mă pluh-dua čô amăng ƀing gih, sa čô mơ̆ng rĭm kơnung djuai. 24Ƀing gơñu tơbiă nao hăng mŭt amăng dơnung Eskhôl hăng kơsem pơ anŭn. 25Ƀing gơñu mă ba rai pơ ƀing ta ƀiă boh čroh mơ̆ng anih anŭn hăng laĭ pơthâo tui anai, “Anih anai jing anih Yahweh Ơi Adai ta či brơi kơ ƀing ta jing lŏn hiam biă mă yơh.”

Tơlơi Tơgŭ Pơkơdơ̆ng Glaĭ Hăng Yahweh

26Môseh pơhiăp dơ̆ng tui anai: Samơ̆ ƀing ama gih ƀu kiăng đĭ nao ôh; ƀing gơñu tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơlơi pơđar Yahweh Ơi Adai gih. 27Ƀing gơñu brŏk ƀuăh amăng sang khăn gơñu tui anai, “Yahweh pơrơmut kơ ƀing ta; tui anŭn Ñu ba ƀing ta tơbiă mơ̆ng čar Êjip kiăng jao hĭ ƀing ta amăng tơngan ƀing Amôr kiăng pơdjai hĭ ƀing ta. 28Lŏn čar pă anai ƀing ta či mŭt nao lĕ? Ƀing ayŏng adơi ta jing ƀing kơnuă anŭn hơmâo ngă laih kơ ƀing ta rơngiă hĭ tơlơi khĭn. Ƀing gơñu laĭ, ‘Ƀing mơnuih anai kơtang hloh laih anŭn glông hloh kơ ƀing ta; khul plei pla gơñu jing prŏng hăng hơmâo khul pơnăng plei anŭn glông truh pơ adai. Ƀing gơmơi ăt ƀuh ƀing djuai Anak mơ̆n pơ anŭn jing ƀing mơnuih prŏng glông biă mă.’ ”
29Giŏng anŭn, kâo laĭ kơ ƀing ama gih, “Anăm huĭ bra̱l ôh; anăm huĭ kơ ƀing gơñu ôh. 30Yahweh Ơi Adai ta yơh jing Pô nao hlâo kơ ƀing gih, laih anŭn či pơblah brơi kơ ƀing gih, kar hăng ƀing gih ƀuh Ñu hơmâo ngă brơi laih kơ ƀing gih amăng čar Êjip, 31laih anŭn amăng tơdron ha̱r mơ̆n. Pơ anŭn yơh ƀing gih ƀuh Yahweh Ơi Adai ta gring ba ƀing gih, hrup hăng sa čô ama gring ba ană đah rơkơi ñu, amăng abih jơlan gih nao tơl truh pơ anih anai.”
32Kơđai glaĭ kơ tơlơi anŭn, ƀing ama gih ƀu đaŏ kơnang kơ Yahweh Ơi Adai ta ôh, 33jing Pô nao hlâo kơ ƀing ta amăng jơlan nao. Ñu dŏ amăng apui tơdang mlam laih anŭn amăng kơthul tơdang hrơi kiăng kơsem khul anih brơi kơ ƀing gih dŏ jưh, laih anŭn kiăng kơčrâo brơi jơlan rơbat kơ ƀing gih mơ̆n.

Yahweh Pơkơhma̱l Ƀing Israel

(Yap 14:20-45)

34Tơdang Yahweh hơmư̆ tơlơi ƀing gơñu laĭ, Ñu hil hăng asăt tui anai: 35“Ƀu hơmâo ôh sa čô amăng tal rơnŭk sat ƀai anai či dưi mŭt pơ anih lŏn hiam Kâo hơmâo ƀuăn brơi laih kơ ƀing ơi adon gơñu, 36rơngiao kơ Kaleb ană đah rơkơi Yephunneh. Ñu či ƀuh anih anŭn, laih anŭn Kâo či brơi kơ ñu laih anŭn kơ ƀing kơnung djuai ñu anih lŏn pă ñu ep kơsem laih, yuakơ ñu đuaĭ tui Kâo hăng abih pran jua.”
37Yuakơ ƀing ama gih yơh, Yahweh pơhiăp hil laih kơ kâo jing khua djă̱ akŏ gơñu tui anai, “Ih ăt ƀu dưi mŭt mơ̆n. 38Samơ̆ pô djru ih, Yôsua ană đah rơkơi Nun či mŭt amăng anih anŭn. Pơtrŭt ñu bĕ, yuakơ ñu či atăt ba ƀing Israel mŭt amăng anih lŏn anai hăng tŭ mă. 39Laih anŭn ƀing čơđai anet jing ƀing gih laĭ či ngă hlŭn mơnă, ƀing ană bă gih jing ƀing aka thâo tơlơi hiam tơlơi sat ôh, ƀing gơñu yơh či dưi mŭt amăng anih lŏn anai. 40Samơ̆ bơ kơ ƀing gih, wir glaĭ bĕ hăng anăp nao pơ tơdron ha̱r kơtuai jơlan nao pơ Rơsĭ Mriah.”
41Giŏng anŭn, ƀing ama gih laĭ glaĭ, “Ƀing gơmơi hơmâo ngă soh laih pơkơdơ̆ng glaĭ hăng Yahweh. Ƀing gơmơi či đĭ nao hăng pơblah tui hăng Yahweh Ơi Adai ta pơđar laih.” Tui anŭn, rĭm čô amăng ƀing gơñu djă̱ gơnam blah yuakơ ƀing gơñu pơmĭn amuñ kiăng đĭ nao blah mă tring anih čư̆ anŭn.
42Samơ̆ Yahweh pơhiăp hăng kâo, “Laĭ bĕ kơ ƀing gơñu tui anai: Anăm đĭ nao blah ôh, yuakơ Kâo ƀu dŏ hrŏm hăng ƀing gih ôh. Ƀing rŏh ayăt gih či blah juă hĭ ƀing gih yơh.”
43Tui anŭn, kâo ruai kơ ƀing gơñu, samơ̆ ƀing gơñu ƀu kiăng hơmư̆ ôh. Ƀing gơñu tơgŭ pơkơdơ̆ng glaĭ hăng tơlơi Yahweh pơđar; ƀing gơñu pơgao biă mă laih anŭn ƀing gơñu kơsung đĭ nao blah tring anih čư̆ ƀing Amôr anŭn. 44Ƀing Amôr jing ƀing hơdip amăng khul bŏl čư̆ anŭn tơbiă pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing gơñu; ƀing rŏh ayăt kiaŏ mă ƀing gơñu hrup hăng khul hơni kiaŏ duč ƀing pơrŭng hruh gơñu, laih anŭn pơrai hĭ ƀing gơñu mơ̆ng tring Seir hlŏng truh pơ plei pơnăng Hormah. 45Ƀing gơñu wơ̆t glaĭ hăng hia ƀơi anăp Yahweh, samơ̆ Ñu ƀu pơmĭn ƀlơ̆ng kơ tơlơi ƀing gơñu čŏk ôh; Ñu kŏn pơđi̱ng tơngia hơmư̆ ƀing gơñu lơi.
46Tui anŭn, ƀing ta dŏ pơ anih Khades amăng lu hrơi, kar hăng ƀing ta thâo laih.