6

Y-Pôl Răp Jăp Ngăn Đah Kan Păng

1Pôri, yorlah he pah kan ndrel ma Brah Ndu, hên vơh vơl ma khân may, lơi sŏk dơn nau Brah Ndu yô̆ dơm dam ôh. 2Yorlah păng lah:
 "Gâp tăng jêh may nar găl, gâp kơl may jêh ta nar tâm rklaih.
 Nẽ aơ, jêng nar găl; nẽ aơ jêng nar tâm rklaih".
3Hên mâu ƀư du ntil ƀư chêh ôh, pôri, bu mâu dơi nduyh ôh ma kan hên ƀư, 4ƀiălah tâm lĕ rngôch nau, hên tâm mpơl hên jêng oh mon Brah Ndu răp jăp ngăn; ma nau srôih nau rêh ni, tâm nau djơh mhĭk, tâm nau rngot, 5tâm nau bu dong, tâm nau bu krŭng, nau uh ah, tâm nau pah kan, tâm nau gŭ njrăng, tâm nau ver sông sa; 6ma nau kloh, ma nau gĭt rbăng, ma nau srôih dơn nau mhĭk, ma nau ueh, ma Brah Huêng Ueh, ma nau rŏng răp jăp, 7ma nau ngơi nau n'hêl nanê̆, ma nau brah Brah Ndu; ma ndơ tâm lơh bơh nau sŏng, mpeh pama jêh ri mpeh pachiau. 8Ta nau bu yơk, mâu lah nau bêk, tâm nklang nau bu tâm rmot mâu lah nau bu tâm rnê. Bu uănh ma hên nâm bu nau ngơi mƀruh; ƀiălah hên ngơi ngăn; 9tâm ban ma bu mâu gĭt năl, ƀiălah bu gĭt năl nanê̆ jêh, nâm bu khĭt, ƀiălah ăt gŭ rêh, nâm bu hŏ rmal jêh, ƀiălah bu mâu nkhĭt ôh. 10Nâm bu rngot, ƀiălah hên răm maak mro; nâm bu o ach, ƀiălah hên ƀư ndrŏng âk bunuyh, nâm bu mâu geh ndơ ôh, ƀiălah hên geh lĕ rngôch ndơ.
11Hơi phung Kôrintô, mbung hên hă jêh ma khân may; nuih n'hâm hên jêng toyh jêh ma khân may. 12Khân may mâu jêng rhăt tâm hên ôh, ƀiălah khân may jêng rhăt tâm nau khân may nơm rŏng. 13Mplơ̆ hom ma hên nau tâm ban gâp ngơi ma khân may nâm bu ma phung kon se ăn toyh hom nuih n'hâm khân may.

Brah Krist Jêh Ri Bêlial

14Lơi ta ndô mbăk ndrel đah phung ê chroh ôh. Yorlah moh nau tâm rnglăp dơi geh nau sŏng đah nau kue? Mâu lah moh nau tâm rnglăp nau ang dơi geh đah nau ngo? 15Moh nau tâm rnglăp Brah Krist dơi geh đah brah Bêlial? Mâu lah moh phung chroh dơi geh ndrel ma phung mâu chroh? 16Moh nau tâm rnglăp ntŭk kloh Brah Ndu dơi geh đah ngih rup brah? Yorlah he jêng ntŭk kloh ma Brah Ndu rêh; nâm bu Brah Ndu lah jêh: "Gâp mra gŭ tâm khân păng jêh ri sak nsong tâm khân păng, gâp mra jêng Brah Ndu khân păng, jêh ri khân păng mra jêng phung ƀon lan gâp ". 17"Yor nây luh du hom khân may tă bơh tâm nklang khân păng.
 Jêh ri tâm nkhah hom khân may.
 Kôranh Brah lah, ơi pah ôh ndơ ƀơ̆, jêh ri gâp mra rom khân may.
18Gâp mra jêng du huê mbơ̆ ma khân may.
 Jêh ri khân may mra jêng phung kon bu klâu jêh ri kon bu ur gâp.
 Pôri Kôranh Brah, Nơm Brah lơn, lah".

6

1Chúng tôi là bạn đồng công với Thượng Đế cho nên chúng tôi nài xin anh chị em: Đừng làm uổng phí ân tứ anh chị em đã nhận từ Thượng Đế. 2Thượng Đế đã phán,
  “Ta đã nghe lời cầu nguyện
   của ngươi đúng lúc.
  Ta đã cứu giúp ngươi
   trong ngày cứu rỗi.” Ê-sai 49:8
 Tôi xin thưa với anh chị em, bây giờ là “đúng lúc,” và bây giờ là “ngày cứu rỗi.”
3Chúng tôi không muốn làm cớ vấp ngã cho người nào để không ai chỉ trích việc làm của chúng tôi. 4Trong mọi việc, chúng tôi luôn luôn chứng tỏ mình là đầy tớ Thượng Đế: Chúng tôi chấp nhận khốn khó, vất vả và thử thách. 5Chúng tôi bị đòn vọt, tù đày. Gặp những người tức giận với chúng tôi rồi gây bạo động. Chúng tôi làm việc vất vả, có khi thiếu ăn, mất ngủ. 6Để chứng tỏ mình là đầy tớ của Thượng Đế chúng tôi dùng đời sống tinh sạch, hiểu biết, kiên nhẫn, nhân từ, bằng Thánh Linh, bằng lòng yêu thương chân thật, 7bằng lời nói thật, và bằng quyền năng Thượng Đế. Chúng tôi dùng nếp sống ngay thật để bênh vực mình khỏi mọi thứ. 8Có người tôn trọng chúng tôi nhưng cũng có kẻ chê trách chúng tôi. Có kẻ nói xấu chúng tôi nhưng cũng có người nói tốt về chúng tôi. Có người cho chúng tôi là kẻ nói dối nhưng chúng tôi luôn luôn nói điều chân thật. 9Trông như không ai biết, thế mà có nhiều người biết. Trông như sắp chết, thế mà vẫn còn sống, chúng tôi bị hình phạt nhưng chưa bị giết. 10Gặp đủ cảnh buồn mà trong lòng vẫn vui. Tuy nghèo mà lại làm cho nhiều người giàu có trong đức tin. Trông như không có gì cả mà lại có đủ mọi thứ.
11Chúng tôi đã thẳng thắn giảng dạy anh chị em ở Cô-rinh và đã mở rộng lòng ra cho anh chị em. 12Lòng yêu mến của chúng tôi dành cho anh chị em không hề dứt nhưng chính anh chị em đã dứt lòng yêu mến mà anh chị em dành chúng tôi. 13Tôi nói với anh chị em như với con cái mình. Hãy đối với chúng tôi như chúng tôi đối với anh chị em—hãy mở rộng lòng ra với chúng tôi.

Cảnh cáo về những người không tin

14Anh chị em không như những người chưa tin. Cho nên đừng kết bạn với họ. Xấu và tốt không thể đi chung nhau. Sáng và tối cũng không hòa hợp được. 15Làm sao mà Chúa Cứu Thế và Bê-li-an, tức ma quỉ, thỏa hiệp được với nhau? Người tin có phần nào chung với người không tin? 16Đền thờ Thượng Đế làm sao liên kết được với thần tượng, mà chúng ta là đền thờ của Thượng Đế hằng sống. Như Thượng Đế đã phán,
  “Ta sẽ sống và đi lại giữa họ.
   Ta sẽ là Thượng Đế của họ,
   còn họ sẽ làm dân ta.” Lê-vi 26:11-12
  17“Chúa phán,
  Hãy ra khỏi chúng nó,
   hãy tách riêng ra.
  Đừng đụng đến đồ dơ bẩn,
   thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi.” Ê-sai 52:11
  18“Ta sẽ làm cha các ngươi,
   còn các ngươi sẽ làm con trai
   và con gái ta,
  Chúa Toàn Năng phán như vậy.” II Sa-mu-ên 7:8, 14