9

1Nau tâm rnglăp lor, geh lĕ nau vay ma nau yơk jêh ri ntŭk kloh ta neh ntu. 2Geh du mlâm ngih bok ƀư jêh. Tâm ntŭk lor, bu rnha Ntŭk Kloh, ta nây geh jâng jrêng, du mlâm sưng jêh ri kapŭng nau ton. 3Pakơi bok nthăng tal bar, geh ntŭk bu rnha ntŭk Kloh Ngăn. 4Ta nây geh du mlâm nơng mah gay su ndơ ƀâu kah jêh ri hip nau tâm rnglăp, ndop mah dadê. Tâm hip nây geh du mlâm yăng mah bu dơ kapŭng mana, geh mâng Y-Arôn luh kao, jêh ri geh bar mpơng lŭ bu nchih nau tâm rnglăp. 5Ta klơ hip nây geh rup bar hê tông păr ueh, nau chrêk rmah nkŭm ma gui n'hâm khân păng ntŭk nau yô̆ gŭ. Ma nau nây hên mâu hôm dơi ngơi ăp aƀaơ aơ.
6Jêh nkra lĕ nau nây, phung kôranh ƀư brah lăp mro tâm ntŭk tal lor, ƀư kan khân păng vay ƀư; 7ƀiălah tâm jrô tal bar, knŏng kôranh ƀư brah toyh lăp du tơ̆ du năm, jêh ri mâu dơi ôh tơlah păng mâu leo mham, gay nhhơr yor păng nơm, jêh ri ma nau tih phung ƀon lan. 8Ma nau nây Brah Huêng Ueh tâm mpơl ma trong hăn ta ntŭk kloh ueh ngăn, ê pơk ôh tơlah ngih bok ơm hôm e. 9(Nau nây jêng nau tâm ntĭt ma rnôk aƀaơ). Tĭng nâm nau nkra nây mâu dơi rah vah ôh, nuih n'hâm sŏng nơm nhhơr ndơ ăn, jêh ri ndơ ƀư brah, 10ƀiălah jêng knŏng (ma ndơ sông sa, ndơ nhêt, jêh ri lĕ ntil nau rao) nau vay tĭng nâm nglay săk ntăm jêh, kŏ tât rnôk nau tâm rgâl.

Knŏng Nau Brah Yêsu Ƀư Brah Jêng Rah Vah

11Ƀiălah Brah Krist tât jêh jêng nâm bu du huê kôranh ƀư brah toyh, ma nau ueh mra tât. Păng rgăn jêh ngih bok toyh lơn, jêh ri rah vah lơn, mâu di ti bunuyh ƀư ôh, nâm bu ntĭt, mâu jêng ndơ rhăk njêng ta aơ ôh. 12Jêh ri Păng lăp jêh knŏng du tơ̆ dŭm nây tâm ntŭk kloh, mâu di ma mham be nkuăng jêh ri kon ndrôk ôh, Ƀiălah ma mham Păng Nơm, Păng sŏk dơn ma he jêh, nau tâm chuai n'ho ro. 13Yorlah tơlah mham ndrôk nkuăng jêh ri be nkuăng, ndrôk me nkhŭt ta klơ phung ƀơ̆, dơi prăp an ma nau ƀư kloh nglay săk, 14rlau lơn ma nây mham Brah Krist, Nơm nhhơr Păng nơm ma Brah Ndu, mâu geh nau ƀơ̆, ma Brah Huêng Ueh n'ho ro, dơi ƀư kloh nuih n'hâm sŏng khân may ma kan khĭt, gay ma khân may pah kan ma Brah Ndu rêh.
15Pôri Păng jêng Nơm tâm nklang ma nau tâm rnglăp mhe, gay ma phung geh jêh nau kuăl dơi sŏk dơn nau ndơn drăp n'ho ro, ton jêh ma khân păng, yorlah nau khĭt tât jêh dơi tâm chuai khân păng bơh nau tih tâm dâng nau tâm rnglăp ơm. 16Yorlah ta ntŭk geh nau tâm rnglăp, khlay ma bu ăn gĭt nau khĭt tât ngăn ma Nơm ƀư nau tâm rnglăp nây. 17Nau tâm rnglăp jêng ngăn tơlah tât nau khĭt, yorlah Păng mâu geh nau ktang ôh tơlah Păng ƀư nau tâm rnglăp ăt hôm rêh. 18Pôri, nđâp ma nau tâm rnglăp lor, mâu jêng khlay ôh tơlah mâu geh mham nkhŭt. 19Jêh Y-Môis mbơh lĕ nau ntăm tâm nau vay, păng sŏk mham kon ndrôk jêh ri be nkuăng ndrel ma dak, jêh ri rse brai chăng, jêh ri n'ha hisôp, păng mbrih mham ta ndrom samƀŭt jêh ri ta lĕ rngôch ƀon lan, dôl lah: 20"Aơ jêng mham nau tâm rnglăp Brah Ndu ntăm jêh ma khân may." 21Păng mbrih mham ta ngih bok tâm ban lĕ, jêh ri ta lĕ ndơ bu dŏng ma nau ƀư brah. 22Tĭng nâm nau vay, bơi ma lĕ ndơ ƀư kloh jêh ma mham, jêh ri tơlah mâu geh mham nkhŭt, mâu geh nau yô̆ an ôh.
23Pôri khlay yơh ma rup mpa gŭ tâm trôk mra ƀư kloh tĭng nâm nau vay nây, ƀiălah mpa tâm trôk, ngăn ma nau ƀư brah ueh lơn ma nây. 24Yorlah Brah Krist mâu lăp ôh tâm ntŭk kloh ti bunuyh ƀư, jêng rup ma nau ngăn, ƀiălah Păng lăp jêh tâm trôk gay ma mpơl Păng nơm tâm tang he ta năp Brah Ndu. 25Păng lăp jêh, mâu lĕ ŭch nhhơr Păng nơm âk tơ̆, nâm bu kôranh ƀư brah toyh lăp ăp năm tâm ntŭk kloh ngăn ma mham mpa êng; 26tơlah pô nây di jêh păng mra dơn nau rêh ni âk lơn bơh ntơm rhăk njêng neh ntu. Ƀiălah aƀaơ nglĕ dŭt rnôk Păng tâm mpơl jêh knŏng du tơ̆ gay ƀư rai nau tih ma nau ƀư brah Păng nơm. 27Jêh ri nâm bu hŏ nal jêh kon bunuyh mra khĭt du tơ̆, jêh nây dơn nau phat dôih, 28tâm ban lĕ Brah Krist nhhơr jêh Păng nơm knŏng du tơ̆, gay tuy nau tih âk bunuyh, mra tâm mpơl tal bar mâu geh nau tih ôh, gay ma tâm rklaih phung gŭ kâp Păng.

9

Hai lối thờ phượng

1Giao ước thứ nhất đã được thiết lập giữa Thượng Đế và dân Ngài để quy định cách thờ phượng và xây dựng một Đền thánh trên mặt đất. 2Sau đó, Đền tạm được dựng lên, gồm hai phần. Phần thứ nhất gọi là Nơi thánh có đặt giá đèn và bàn để bánh trần thiết. 3Phần thứ hai, bên trong bức màn, gọi là Nơi Chí thánh. 4Nơi đây có bàn thờ xông hương bằng vàng và rương giao ước bọc vàng. Trong rương giao ước, có chiếc bình vàng đựng ma-na, cây gậy A-rôn đã nứt lộc và hai bảng đá khắc mười điều răn. 5Trên rương giao ước, có hai chê-ru-bim rực rỡ hào quang, cánh xòe ra che phủ nắp rương. Nhưng ở đây chúng ta không cần đi sâu vào chi tiết. 6Khi mọi sự đã an bài, các thầy tế lễ có thể thường xuyên vào Nơi thánh để thi hành nhiêm vụ. 7Nhưng chỉ có thầy Tế lễ tối cao mới được vào Nơi Chí thánh mỗi năm một lần, và phải đem huyết dâng lên Thượng Đế vì tội lầm lỡ của chính mình và của cả nhân dân.
8Thánh Linh dùng những điều này để dạy chúng ta: nếu Giao ước cũ vẫn còn thì nhân dân chưa được vào Nơi Chí thánh. 9Điều này chứng tỏ lễ vật và sinh tế không thể hoàn toàn tẩy sạch lương tâm loài người. 10Vì Giao ước cũ chỉ định các thức ăn uống, cách tẩy uế, nghi lễ, luật lệ phải thi hành cho đến kỳ Thượng Đế cải cách toàn diện.
11Chúa Cứu Thế đã đến, giữ chức Tế lễ tối cao của Thời kỳ tốt đẹp hiện nay. Chúa đã vào Đền thờ vĩ đại và toàn hảo trên trời, không do tay người xây cất vì không thuộc trần gian. 12Ngài không mang huyết của dê đực, bò con, nhưng dâng chính huyết Ngài trong Nơi Chí thánh, để đem lại sự cứu rỗi đời đời cho chúng ta.
13Huyết của dê đực, bò đực và tro bò cái tơ rảy trên những người ô uế còn có thể thánh hóa, tẩy sạch thân thể họ, 14huống chi huyết của Chúa Cứu Thế lại càng có năng lực tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi hành vi tội lỗi, để chúng ta phụng sự Thượng Đế hằng sống cách trong sạch. Vì Chúa Cứu Thế đã nhờ Thánh Linh hiến dâng thân Ngài làm Sinh tế hoàn toàn cho Thượng Đế. 15Do đó, Chúa Cứu Thế làm Đấng trung gian của Giao ước mới; Ngài đã chịu chết để cứu chuộc loài người khỏi mọi vi phạm chiếu theo Giao ước cũ. Nhờ Ngài, những ai được Thượng Đế mời gọi đều tiếp nhận hạnh phúc vĩnh cửu như Thượng Đế đã hứa. 16Người ta không thể thi hành một chúc thư khi chưa có bằng chứng người viết chúc thư đã chết, 17vì chúc thư chỉ có hiệu lực khi người ấy qua đời. Nếu người ấy còn sống, chúc thư chưa có hiệu lực. 18Vì thế, Giao ước cũ cần được huyết ấn chứng mới có hiệu lực. 19Sau khi công bố các điều khoản luật pháp cho nhân dân, Mai-sen lấy huyết bò con và huyết dê đực cùng với nước, dùng lông chiên đỏ tươi và cành phương thảo rảy huyết trên sách luật và nhân dân. 20ông tuyên bố: “Đây là huyết của Giao ước Thượng Đế thiết lập và bảo đồng bào vâng giữ.” 21Mai-sen cũng rảy huyết trên Đền tạm và mỗi dụng cụ thờ phượng. 22Vậy, theo luật pháp, huyết tẩy sạch hầu hết mọi vật: Nếu không đổ huyết, tội lỗi chẳng bao giờ được tha thứ.

Chúa hy sinh tiêu diệt tội lỗi

23Nếu các vật dưới đất — là mô hình của các vật trên trời — được tẩy sạch nhờ huyết sinh tế, thì các vật thật trên trời phải dùng huyết Sinh tế có gịá trị hơn muôn phần. 24Chúa Cứu Thế không vào Đền thánh dưới đất do con người xây cất, mô phỏng theo Đền thánh thật. Nhưng Ngài đã vào Đền thánh trên trời, và đang thay mặt chúng ta đến gặp Thượng Đế. 25Chúa cũng không dâng thân Ngài nhiều lần, như các thầy Tế lễ tối cao Do-thái mỗi năm phải đem huyết sinh tế vào Nơi Chí thánh. 26Không lẽ từ khi sáng tạo vũ trụ đến nay, Ngài đã phải chịu chết nhiều lần sao? Không, Chúa Cứu Thế chỉ xuất hiện một lần vào cuối các thời đại, dâng thân Ngài làm Sinh tế để xóa sạch tất cả tội lỗi chúng ta.
27Theo thông lệ, mỗi người chỉ chết một lần rồi bị Chúa xét xử. 28Cũng thế, Chúa Cứu Thế chỉ hy sinh tính mạng một lần là đủ gánh thay tội lỗi loài người. Ngài sẽ trở lại, không phải gánh tội lỗi nữa, nhưng để cứu rỗi những người trông đợi Ngài.