21

Tơlơi Phiăn Pap Brơi Kơ Tơlơi Pơdjai Mơnuih Aka Pơsir

1Môseh pơhiăp dơ̆ng tui anai: Tơdang ƀing gih dŏ hơdip amăng anih lŏn Yahweh Ơi Adai ta či brơi kơ ƀing gih mă tŭ kar hăng kŏng ngăn, tơdah ƀing gih ƀuh sa čô djai dŏ đih ƀơi hơma yua mơ̆ng arăng pơdjai hĭ gơ̆, samơ̆ ƀing gih ƀu thâo ôh hlơi pô pơdjai hĭ gơ̆, ƀing gih khŏm ngă tui anai: 2ƀing kŏng tha laih anŭn ƀing khua phat kơđi mơ̆ng khul plei jum dar anŭn khŏm tơbiă nao kiăng pơkă dơ̆ pă ataih mơ̆ng atâo anŭn truh pơ khul plei jum dar anŭn. 3Giŏng anŭn, ƀing kŏng tha amăng plei jĕ hloh hăng atâo djai anŭn či mă sa drơi ană rơmô ania arăng aka yua ñu ƀôdah băk oč lơi, 4laih anŭn ba nao gơ̆ pơ sa anih dơnung arăng ƀu jik kai ƀôdah jŭ pla kơyâo pơtâo ôh, jing anih ăt hơmâo sa hơnŏh ia mơ̆n. Amăng dơnung anŭn ƀing gơñu či wŏk hĭ tơkuai rơmô anŭn. 5Ƀing khua ngă yang jing ƀing mơ̆ng kơnung djuai Lêwi khŏm nao pơ anih anŭn mơ̆n, yuakơ Yahweh Ơi Adai hơmâo ruah mă laih ƀing gơñu kiăng kơ mă bruă Ñu laih anŭn kiăng hơơč tơlơi mơyŭn hiam amăng anăn Yahweh. Ƀing gơñu yơh či pơsir hĭ abih bang tơlơi kơđi laih anŭn tơlơi pơrơdjơ̆ pơrơsao hăng tơlơi pơmlâo kar hăng anŭn. 6Giŏng anŭn, abih bang ƀing kŏng tha amăng plei jĕ hloh hăng atâo djai anŭn či rao tơngan gơñu ƀơi ană rơmô arăng wŏk hĭ laih tơkuai, 7laih anŭn ƀing gơñu či pơhaih, “Tơngan gơmơi ƀu ngă tuh drah anai ôh, laih anŭn mơta gơmơi kŏn ƀuh kơ tơlơi anai lơi. 8Ơ Yahweh, tŭ mă bĕ tơlơi pap brơi anŭn kơ ană plei Ih ƀing Israel jing ƀing Ih hơmâo song mă laih mơ̆ng čar Êjip, laih anŭn anăm yap ôh ƀing ană plei Ih jing soh yuakơ drah mơnuih ƀu soh anŭn. Rơkâo kơ Ih pap brơi đa kơ tơlơi tuh drah anai.” 9Tui anŭn, ƀing gih khŏm mă pơđuaĭ hĭ mơ̆ng gih pô tơlơi soh tuh drah mơnuih ƀu soh anŭn, yuakơ ƀing gih hơmâo ngă laih tơlơi djơ̆ ƀơi anăp Yahweh.

Tơlơi Phiăn Pơdŏ Hăng Sa Čô Đah Kơmơi Mơnă

10Môseh pơhiăp dơ̆ng tui anai: Tơdang ƀing gih nao blah pơkơdơ̆ng glaĭ hăng ƀing rŏh ayăt gih, Yahweh Ơi Adai ta jao hĭ ƀing gơñu amăng tơngan gih laih anŭn ƀing gih mă laih ƀing gơñu jing mơnă. 11Tơdah ih pơmĭn kơ sa čô đah kơmơi hiam amăng ƀing mơnă anŭn ih khăp laih anŭn ih kiăng dŏ kơ gơ̆ jing hĭ bơnai ih, 12ih dưi ba glaĭ gơ̆ pơ sang ih hăng brơi gơ̆ kuăh hĭ ƀŭk gơ̆ pô, čơkăp hĭ tơkâo gơ̆ pô, 13laih anŭn tŏh hĭ sum ao mơnă gơ̆ buh tơdang arăng mă gơ̆ jing mơnă anŭn. Tơdơi kơ gơ̆ hơdip amăng sang ih, čŏk hia kơ amĭ ama gơ̆ amăng abih sa blan, giŏng anŭn ih dưi nao pơ gơ̆ jing rơkơi gơ̆ laih anŭn gơ̆ či jing bơnai ih yơh. 14Tơdơi kơ anŭn, tơdah ih ƀu hơmâo tơlơi mơak hăng gơ̆ ôh, ih khŏm brơi bĕ gơ̆ nao pơpă gơ̆ kiăng. Ih anăm sĭ hĭ gơ̆ ƀôdah ngă kơ gơ̆ hrup hăng sa čô hlŭn ôh, yuakơ ih hơmâo pơmlâo hĭ gơ̆ laih.

Tơlơi Phiăn Kơ Tơlơi Dưi Ană Kơčoa

15Môseh pơhiăp dơ̆ng tui anai: Tơdah sa čô đah rơkơi hơmâo dua čô bơnai, ñu khăp kơ pô anai hloh kơ pô adih, laih anŭn abih dua čô bơnai ñu anai le̱ng kơ hơmâo rai ană đah rơkơi kơ ñu, samơ̆ ană kơčoa đah rơkơi ñu jing ană mơ̆ng pô bơnai ñu ƀu khăp đơi ôh. 16Tơdang truh hrơi ñu pơpha mŭk dram ñu kơ ƀing ană đah rơkơi ñu, ñu anăm brơi ôh khul tơlơi dưi ană kơčoa kơ ană đah rơkơi bơnai ñu khăp lu pơala kơ ană kơčoa đah rơkơi ñu mơ̆ng bơnai ñu ƀu khăp đơi ôh anŭn. 17Ñu khŏm thâo krăn ană đah rơkơi bơnai ñu ƀu khăp đơi anŭn jing ană kơčoa laih anŭn brơi kơ gơ̆ črăn pơpha dua wơ̆t lu hloh amăng abih bang gơnam ñu hơmâo. Ană đah rơkơi anŭn jing gru kơnăl blung hlâo kơ tơlơi kơtang ama ñu jing đah rơkơi. Tơlơi dưi ană kơčoa či lŏm kơ gơ̆ yơh.

Tơlơi Phiăn Kơ Ană Đah Rơkơi Tơgŭ Pơkơdơ̆ng

18Môseh pơhiăp dơ̆ng tui anai: Tơdah sa čô mơnuih hơmâo sa čô ană đah rơkơi khăng akŏ laih anŭn tơgŭ pơkơdơ̆ng, jing pô ƀu kiăng tui gưt kơ amĭ ama ñu ôh wơ̆t tơdah amĭ ama ñu ƀuăh pơkra kơ ñu, 19amĭ ama ñu khŏm ba ñu nao pơ ƀing kŏng tha ƀơi amăng ja̱ng plei ñu. 20Amĭ ama ñu či laĭ hăng ƀing kŏng tha anŭn, “Anai jing ană đah rơkơi gơmơi, jing pô khăng akŏ laih anŭn tơgŭ pơkơdơ̆ng. Ñu ƀu tui gưt kơ ƀing gơmơi ôh. Ñu jing sa čô ră̱ ƀơ̆ng laih anŭn juăt măt tơpai.” 21Giŏng anŭn, abih bang mơnuih amăng plei ñu či glŏm pơdjai hĭ ñu hăng boh pơtâo yơh. Ƀing gih khŏm pơrai hĭ pô sat ƀai mơ̆ng tŏng krah ƀing gih. Tui anŭn, abih bang Israel či hơmư̆ kơ tơlơi anŭn laih anŭn ƀing gơñu či huĭ yơh.

Khul Tơlơi Phiăn Pơkŏn

22Môseh pơhiăp dơ̆ng tui anai: Tơdah sa čô ngă soh lăp kơ djai, sĭt ƀing gih či pơdjai hĭ ñu laih anŭn klâŏ hơtŏp yol atâo ñu ƀơi sa ƀĕ tơpơ̆ng kơyâo, 23ƀing gih anăm lui hĭ atâo anŭn truh kơ mơmŏt ôh. Khŏm dơ̱r hĭ ñu ăt amăng hrơi anŭn mơ̆n, yuakơ hlơi pô arăng klâŏ hơtŏp yol đĭ ƀơi sa ƀĕ kơyâo jing dŏ gah yŭ kơ tơlơi Ơi Adai hơtŏm păh yơh. Ƀing gih anăm pơgrĭ hĭ ôh anih lŏn Yahweh Ơi Adai ta či brơi kơ ƀing gih jing kŏng ngăn anŭn.

21

Luật về Việc Không Tìm Ra Kẻ Sát Nhân

1Nếu ở trong xứ mà CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, ban cho anh chị em chiếm hữu có một thây người nằm ở ngoài đồng, mà không biết ai đã giết kẻ ấy, 2các tư tế và các quan xét của anh chị em hãy đến đo xem thành nào gần với thây kẻ chết nhất. 3Các trưởng lão của thành gần với thây kẻ chết nhất sẽ bắt một con bò cái tơ chưa đi cày, tức chưa hề mang ách; 4các trưởng lão sẽ dắt con bò ấy xuống một khe có nước đang chảy, đến một nơi chưa được cày cấy hay gieo trồng, rồi họ sẽ bẻ gãy cổ con bò cái ấy trong khe nước. 5Sau đó, các tư tế thuộc dòng Lê-vi sẽ bước ra, vì họ là những người được CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã chọn để phục vụ Ngài và nhân danh Ngài mà chúc phước, và cứ theo sự phán quyết của họ mà mọi sự tranh tụng hay hành hung sẽ được giải quyết. 6Tất cả các trưởng lão của thành gần với thây kẻ chết nhất sẽ rửa tay trên cổ con bò cái đã bị bẻ gãy cổ trong khe nước, 7và nói, ‘Tay chúng tôi đã không làm đổ máu người nầy, và mắt chúng tôi đã không thấy ai làm việc đó. 8Lạy CHÚA, xin giải tội cho dân I-sơ-ra-ên, những người Ngài đã chuộc. Cầu xin Ngài đừng để tội làm đổ máu vô tội còn lại ở giữa I-sơ-ra-ên dân Ngài.’ Bấy giờ họ mới được giải trừ khỏi tội làm đổ máu. 9Làm như thế anh chị em sẽ tẩy trừ tội làm đổ máu vô tội khỏi anh chị em, vì anh chị em phải làm những gì đúng trước thánh nhan CHÚA.

Luật về Việc Cưới Phụ Nữ Bị Bắt trong Chiến Tranh

10Khi anh chị em ra trận đánh quân thù của mình, và khi CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, trao chúng vào tay anh chị em và anh chị em bắt chúng làm tù binh, 11nếu anh em thấy trong đám tù binh có một phụ nữ xinh đẹp và muốn lấy nàng làm vợ, 12anh em có thể đem người ấy về nhà mình. Nàng sẽ cạo đầu mình, cắt các móng tay, 13cổi bỏ áo tù binh, và ở trong nhà anh em trọn một tháng để khóc thương cha mẹ nàng. Sau đó anh em có thể đến với nàng, làm chồng nàng, và nàng sẽ thành vợ của anh em. 14Nhưng nếu anh em không có hạnh phúc với nàng, anh em hãy để nàng ra đi làm một người tự do, và không được bán nàng để lấy tiền. Anh em không được đối xử với nàng như một nô lệ, vì dù sao anh em cũng đã cưỡng bức nàng.

Luật về Quyền Trưởng Tử

15Nếu một người đàn ông có hai vợ, và người ấy lại thương vợ nầy mà không thương vợ kia, và nếu cả hai vợ đều sinh con trai cho người ấy, mà đứa con đầu lòng lại là con của người vợ không được thương. 16Ðến ngày lập di chúc cho các con mình, người ấy không được thiên vị đứa con của người vợ được thương mà cất quyền trưởng tử của đứa con của người vợ không được thương. 17Người ấy phải nhìn nhận quyền trưởng tử của đứa con của người vợ không được thương, và chia cho đứa con ấy gấp đôi phần gia tài trong tất cả tài sản của mình, vì đứa con ấy là bông trái đầu tiên của sức lực người ấy, và đứa con ấy đáng được hưởng quyền trưởng tử.

Luật về Trừng Trị Ðứa Con Bất Trị

18Nếu người nào có đứa con ngỗ nghịch và bất trị, một đứa con không vâng lời cha mẹ, một kẻ được cha mẹ sửa dạy nhưng nó vẫn chẳng chịu nghe, 19cha mẹ đứa con ấy sẽ bắt nó và đem nó đến các trưởng lão của thành ở cổng thành. 20Họ sẽ nói với các trưởng lão của thành, ‘Ðứa con của chúng tôi đây là kẻ ngỗ nghịch và bất trị. Nó không vâng lời chúng tôi. Nó chỉ ham ăn nhậu và say sưa.’ 21Bấy giờ dân trong thành sẽ ném đá đứa con ấy cho chết. Làm như thế anh chị em sẽ tẩy trừ sự gian ác khỏi anh chị em; rồi toàn thể dân I-sơ-ra-ên sẽ nghe tin ấy và phát sợ.

Luật về Thây Kẻ Bị Xử Tử

22Khi một người phạm tội đáng chết và phải bị xử tử, và anh chị em đã treo nó trên cây, 23anh chị em không được để xác nó qua đêm trên cây. Anh chị em phải chôn nó nội ngày ấy, vì kẻ nào bị treo trên cây là ở dưới sự nguyền rủa của Ðức Chúa Trời. Anh chị em chớ làm ô uế xứ mà CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, ban cho anh chị em để chiếm hữu.