7

Nau Y-Daniel Mbơi Saơ Puăn Mlâm Mpa Bri

1Năm tal nguay Y-Beltisasar hđăch n'gor bri Babilôn. Y-Daniel geh nau mbơi saơ jêh ri nau tâm saơ dôl păng gŭ lâng săk ta sưng bêch. Păng chih nau păng mbơi saơ jêh ri nkoch bri nau nây.
2Y-Daniel lah: "Dôl măng gâp saơ tâm nau tâm saơ pô aơ: puăn ntil sial bơh trôk khôm ta kalơ dak mƀŭt toyh. 3Jêh ri puăn mlâm mpa bri toyh luh bơh dak mƀŭt, khân păng jêng êng êng dadê. 4Mpa bri rơh nguay jêng tâm ban ma yau mŭr jêh ri geh năr klang. Gâp uănh kŏ saơ pâk năr păng bu pư păng bơh neh ăn păng dâk râng ma bar mlâm jâng tâm ban ma bunuyh; jêh ri bu ăn ma păng nau mĭn bunuyh;
5Aơ, geh du mlâm mpa bri êng rơh bar, jêng tâm ban ma kau. Păng gŭ nkêng mpeh du đah, jêh ri geh pe mlâm nting rpaih tâm trôm mbung păng ta nklang neng; jêh ri bu lah ma păng: "Dâk sa hom âk puăch. 6Jêh ma nây gâp uănh jêh ri aơ, geh du mlâm mpa bri êng jêng tâm ban ma yau brăch; ta ndŭr kơi geh puăn plơp năr sĭm. Mpa bri nây geh puăn mlâm bôk; jêh ri bu ăn nau dơi chiă uănh ma păng. 7Jêh ma nây gâp saơ tâm nau tâm saơ dôl măng, ta aơ du mlâm mpa bri rơh puăn, janh, nhhu bu, jêh ri katang ngăn; păng geh neng loih toyh, păng rvăn sa, ƀư chah, jêh ri jot ma jâng păng mpa ăt hôm. Păng jêng êng đah lĕ mpa bri tât lor, jêh ri păng geh jât mlâm nke. 8Dôl gâp nchrâng nke nây, ta aơ geh du mlâm nke jê̆ êng hon ta nklang nke nây, jêh ri păng tŏk lŏk lơi pe mlâm nke geh lor. Aơ, nke nây geh măt tâm ban ma măt bunuyh jêh ri mbung păng ngơi ma nau sưr.
9"Dôl gâp uănh: bu dăp âk sưng hđăch jêh ri Nơm Gŭ Rêh Bơh Rnôk Kăl e gŭ, bok ao păng nglang nâm bu pler jêh ri chhŏk (sŏk) păng tâm ban ma rsau biăp kloh; sưng hđăch păng hit ma mpiăt ŭnh, jêh ri mpok sưng nây jêng ŭnh hit.
10Geh dak krong ŭnh hoch, luh tă bơh ta năp păng,
 Âk rbăn nuyh pah kan ma păng, jêh ri âk rmưn rsen nuyh gŭ ta năp păng.
 Phung phat dôih gŭ phat dôih jêh ri bu pơk jêh âk ndrom sămƀŭt.
11"Dôl nây gâp gŭ uănh yor nau sưr nke nây ngơi. Dôl gâp uănh bu nkhĭt mpa bri nây, ƀư rai săk jăn păng, jêh ri jao păng ăn ŭnh sa lơi. 12Bi ma lĕ rngôch mpa bri êng nây, bu sŏk lơi nau khân păng dơi chiă uănh, ƀiălah bu njong jŏ nau rêh khân păng du yăn tâm nal jêh. 13Gâp saơ tâm nau tâm saơ dôl măng, aơ geh tâm ban ma kon bunuyh văch ndrel ma ndâr bơh trôk. Păng tât ma Nơm Gŭ Rêh Bơh Rnôk kăl E, jêh ri bu tâm mpơl păng ta năp Nơm Gŭ Rêh Bơh Rnôk kăl E. 14Bu ăn ma păng nau dơi chiă uănh, nau chrêk rmah jêh ri ƀon bri hđăch, gay ma lĕ rngôch phung ƀon lan, phung ndŭl mpôl bunuyh jêh ri ngơi nau êng êng mra pah kan ma păng. Nau păng chiă uănh gŭ ƀaƀơ n'ho ro, mâu mra rlau lôch ôh, jêh ri ƀon bri hđăch păng mâu mra rai ôh,
15Bi gâp be, Y-Daniel, huêng gâp rŭng răng jêh ri nau gâp saơ nhhu gâp. 16Gâp hăn dăch du huê tâm phung gŭ râng ta nây, jêh ri ôp păng ma nau rblang ngăn tâm lĕ nau aơ. Pô ri păng mbơh ma gâp jêh ri ăn gâp gĭt rbăng nau rblang ma nau nây: 17"Puăn mlâm mpa bri toyh nây tâm ntĭt ma puăn nuyh hđăch mra chiă uănh ta neh ntu. 18Ƀiălah phung kloh ueh Nơm Kalơ Lơn mra sŏk dơn ƀon bri hđăch ƀaƀơ n'ho ro tâm lĕ rngôch rnôk.'
19Jêh ri gâp ŭch gĭt rbăng nau nanê̆ di ma mpa bri rơh puăn, jêng êng đah lĕ mpa bri êng, tâm nhhu ngăn; geh neng loih jêh ri nheh kông; păng hêk sa, nchah rai jêjê̆ jêh ri jot ma jâng păng mpa hôm; 20jêh ri di ma jât mlâm nke ta bôk păng, jêh ri ma du mlâm nke êng hon jêh ri tŏk lŏk lơi pe mlâm nke êng, nke nây geh măt jêh ri mbung ngơi nau sưr, jêh ri uănh păng tâm ban ma katang lơn ma nke êng. 21Dôl gâp gŭ uănh nke nây tâm lơh đah phung kloh ueh, jêh ri dơi đah khân păng, 22kŏ Nơm Gŭ Rêh Bơh Rnôk kal E tât jêh ri ăn nau phat dôih yor phung kloh ueh Nơm Kalơ Lơn, jêh ri rnôk tât tơ lah phung kloh ueh sŏk dơn ƀon bri hđăch.
23Pô aơ păng lah: "Bi ma mpa bri rơh puăn, nâm bu ntĭt mra geh ƀon bri hđăch rơh puăn ta neh ntu mra jêng êng đah lĕ rngôch ƀon bri hđăch êng, jêh ri păng mra hêk sa lĕ neh ntu. 24Bi ma jât mlâm nke, nâm bu ntĭt jât nuyh hđăch mra luh văch bơh ƀon bri hđăch. Du huê hđăch êng mra luh văch pa kơi lơn ma khân păng, păng mra jêng êng đah phung hđăch lor, jêh ri mra n'glưh pe nuyh hđăch. 25Păng mra ngơi tâm rdâng đah Nơm Ta Kalơ Lơn, jêh ri mra dơi đah phung kloh ueh Nơm Ta Kalơ Lơn jêh ri mra mĭn tâm rgâl rnôk tâm nal jêh ri nau vay; jêh ri bu mra jao phung kloh ueh tâm ti păng dôl du năm, bar năm jêh ri n'gul năm.
26Ƀiălah phung phat dôih mra ntơm phat dôih, jêh ri bu mra sŏk lơi nau păng dơi chiă uănh, gay ƀư rai ƀư roh lơi n'ho ro. 27Jêh ri bu mra jao ƀon bri hđăch, nau dơi chiă uănh, jêh ri nau toyh lĕ rngôch ƀon bri hđăch tâm rdâng lĕ trôk ma phung kloh ueh, phung ƀon lan Nơm Ta Kalơ Lơn. Ƀon bri hđăch păng mra jêng ƀon bri hđăch gŭ n'ho ro, jêh ri lĕ rngôch phung chiă uănh mra pah kan jêh ri tông ma păng.
28Ta aơ lôch nau nkoch bri aơ. Bi gâp be Y-Daniel, nau mĭn gâp rŭng răng âk, muh măt gâp êr; ƀiălah gâp djôt prăp lĕ nau nây tâm nuih n'hâm gâp.

7

Khải Tượng về Bốn Sinh Vật

1Trong năm thứ nhất của triều đại Bên-sác-xa vua Ba-by-lôn, Ða-ni-ên nằm trên giường và thấy chiêm bao. Ông thấy các khải tượng trong đầu ông. Ông ghi lại tất cả những gì ông đã thấy trong giấc chiêm bao ấy và nói, 2“Tôi, Ða-ni-ên, xin thuật lại như sau: Ban đêm, trong một khải tượng, tôi thấy, kìa, bốn hướng gió trên trời đang vần vũ dữ dội trên mặt đại dương. 3Từ dưới biển có bốn con thú đi lên; mỗi con đều khác với các con khác. 4Con thứ nhất giống như sư tử và có cánh như đại bàng. Bấy giờ, khi tôi đang mải mê nhìn, tôi thấy đôi cánh của nó bị bứt đi. Sau đó, nó được nhấc lên khỏi mặt đất và để đứng trên hai chân như một người. Nó lại được ban cho tâm trí của loài người. 5Kế đó, một con thú khác xuất hiện, con thú thứ nhì. Nó giống như một con gấu. Nó được đặt trong tư thế đứng khòm trên hai chân. Trong miệng nó, giữa hai hàm răng, nhô ra ba khúc xương sườn, và nó được bảo, “Hãy đứng dậy và ăn tươi nuốt sống nhiều thịt.” 6Sau đó, tôi đang nhìn, và kìa, một con thú nữa xuất hiện. Nó giống như một con beo. Con thú ấy có bốn cánh như cánh chim trên lưng của nó. Nó có bốn đầu, và nó được ban cho quyền cai trị. 7Sau đó, ban đêm, tôi thấy trong khải tượng, kìa, con thú thứ tư xuất hiện. Nó trông thật đáng sợ và khủng khiếp. Nó rất mạnh và có các răng lớn bằng sắt. Nó cắn xé, nghiền nát, và chà đạp dưới chân những gì còn sót lại. Nó khác hẳn tất cả các con thú trước nó; nó có đến mười sừng. 8Ðang khi tôi nhìn các sừng của nó, kìa, một sừng khác, một sừng nhỏ, mọc lên ở giữa các sừng ấy. Ðể có chỗ cho sừng nhỏ ấy mọc lên, ba sừng vốn đã có trước nó phải bị nhổ đi tận gốc trước mặt nó. Kìa, sừng ấy có các mắt như mắt của người ta, và có miệng nói những lời cao ngạo trịch thượng.

Ðấng Thái Cổ Phán Xét

  9Khi tôi đang nhìn, tôi thấy các ngai được đặt vào chỗ;
  Một Ðấng Thái Cổ đến ngồi vào chiếc ngai của Ngài.
  Y phục của Ngài trắng như tuyết;
  Tóc trên đầu Ngài tựa như lông chiên tinh ròng;
  Ngai của Ngài được bao phủ bằng các ngọn lửa;
  Các bánh xe của ngai cũng rực lửa hừng hừng.
  10Từ thánh nhan Ngài một ngọn lửa hừng hực và cuồn cuộn phát ra.
  Ngàn ngàn hầu hạ Ngài,
  Vạn vạn túc trực trước mặt Ngài.
  Phiên tòa bắt đầu xử, và các sách được mở ra.
11Bấy giờ tôi tiếp tục nhìn vì âm thanh của những lời cao ngạo trịch thượng từ sừng ấy nói ra. Tôi cứ nhìn cho đến khi con thú ấy bị giết; thân xác nó bị tiêu hủy và bị thiêu trong lửa. 12Các con thú còn lại đều bị tước hết quyền cai trị; tuy nhiên chúng được cho sống thêm một mùa và một kỳ.
13Ban đêm tôi thấy trong các khải tượng:
  Kìa, một Ðấng giống như Con Người ngự trên mây trời đến.
  Ngài đến trước mặt Ðấng Thái Cổ,
  Và được đưa ra trình diện trước Ðấng ấy.
  14Ngài được ban cho quyền trị vì, vinh hiển, và vương quyền,
  Ðể mọi dân tộc, mọi quốc gia, và mọi ngữ tộc phải phục vụ Ngài.
  Quyền trị vì của Ngài là quyền trị vì đời đời, không bao giờ qua đi;
  Vương quyền của Ngài là vương quyền không bao giờ bị hủy bỏ.

Khải Tượng Ðược Giải Nghĩa

15Về phần tôi, Ða-ni-ên, tâm trí tôi bối rối trong tôi, và những khải tượng tôi thấy trong đầu đã làm tôi lo sợ. 16Tôi tiến gần một trong những vị đang túc trực và hỏi vị ấy sự thật của những khải tượng đó là thế nào. Vị ấy trả lời và giải thích cho tôi biết những điều ấy như sau:
17“Bốn con thú to lớn chỉ về bốn vua sẽ trỗi lên trên đất. 18Nhưng các thánh đồ của Ðấng Tối Cao sẽ nhận lấy vương quốc đời đời, vô cùng, và vĩnh cửu.”
19Tôi bày tỏ nguyện vọng muốn biết sự thật về con thú thứ tư, con thú khác hơn tất cả các con thú khác; đó là một con thú cực kỳ đáng sợ, các răng của nó bằng sắt, và các móng vuốt của nó bằng đồng. Nó cắn xé, nghiền nát, và chà đạp dưới chân những gì còn sót lại. 20Tôi cũng muốn biết về mười cái sừng trên đầu nó, và về cái sừng kia mọc lên sau, và để có chỗ cho nó, ba sừng phải rụng đi. Cái sừng đó có các mắt và miệng nói những lời cao ngạo trịch thượng. Ngoài ra nó có vẻ lớn hơn các sừng khác. 21Trong khi tôi đang nhìn, cái sừng ấy giao chiến với các thánh đồ và thắng hơn họ 22cho đến khi Ðấng Thái Cổ đến. Bấy giờ có cuộc phán xét để binh vực các thánh đồ của Ðấng Tối Cao, và thời điểm đã đến để các thánh đồ được nắm trọn quyền của vương quốc. 23Ðây là những gì vị ấy nói,
  “Về con thú thứ tư,
  Sẽ có một đế quốc thứ tư trên đất;
  Ðế quốc ấy sẽ khác hơn tất cả các đế quốc khác;
  Nó sẽ ăn nuốt cả thế giới;
  Nó sẽ giày đạp và nghiền nát thế giới dưới chân nó.
  24Còn về mười cái sừng,
  Từ đế quốc ấy mười vua sẽ nổi lên;
  Nhưng sẽ có một vua khác nổi lên sau mười vua đó;
  Vua mới nổi lên ấy sẽ khác hơn mười vua trước;
  Vua mới ấy sẽ tiêu diệt ba vua.
  25Vua ấy sẽ nói những lời chống lại Ðấng Tối Cao;
  Vua ấy sẽ làm hại các thánh đồ của Ðấng Tối Cao;
  Vua ấy sẽ cố thay đổi thời giờ và luật pháp.
  Người ta sẽ trao quyền cho vua ấy một kỳ, hai kỳ, và nửa kỳ.
  26Sau đó tòa phán xét sẽ ngồi lại để xét xử;
  Quyền bính của vua ấy sẽ bị truất phế,
  Ðể bị giải thể và bị tiêu diệt hoàn toàn.
  27Bấy giờ vương quyền, quyền bính, và sự vĩ đại của các vương quốc ở dưới trời sẽ được ban cho dân thánh, tức các thánh đồ của Ðấng Tối Cao;
  Vương quốc của Ngài sẽ là vương quốc đời đời;
  Và mọi quyền bính sẽ phục vụ Ngài và vâng lời Ngài.”
28Những lời giải nghĩa về các khải tượng đến đây là chấm dứt. Nhưng về phần tôi, Ða-ni-ên, những tư tưởng trong tôi làm tôi quá đỗi sợ hãi, đến nỗi mặt tôi biến sắc, nhưng tôi giữ kín việc ấy trong lòng.