17

Ahithaufee tej lug kov tsw yeej Husai tej lug

1Hab Ahithaufee has rua Axaloo tas, “Thov ca kuv xaiv ib vaam ob txheeb tug tub rog es mo nuav kuv sawv kev moog lawv Tavi. 2Kuv yuav moog lawv cuag rua thaus nwg txug sav heev hab poob sab ua rua nwg ntshai raag zum zawg, cov tuabneeg kws nrug nwg ua ke suavdawg yuav tswv taag. Kuv yuav tua kag vaajntxwv tuab leeg xwb, 3hab kuv yuav coj cov pejxeem suavdawg rov lug rua koj. Thaus kws tua tau tuab tug kws koj cheem tsum xwb, tes kuj tau cov pejxeem suavdawg rov lug lawm, hab cov pejxeem suavdawg yuav nyob kaaj sab lug.” 4Cov lug nuav hum Axaloo hab Yixayee cov kev txwj quas laug suavdawg lub sab.
5Axaloo txhad has tas, “Ca le hu Husai kws yog Akhi cum lug. Peb yuav noog saib nwg has le caag.” 6Thaus Husai lug cuag Axaloo, Axaloo has rua nwg tas, “Ahithaufee has le nuav lawm. Tswm nyog ua lawv le nwg qha los tsw tswm nyog ua? Yog tsw tswm nyog ua, koj ca le has.” 7Husai has rua Axaloo tas, “Tej kws Ahithaufee has zag nuav tsw zoo.” 8Husai has ntxwv tas, “Koj yeej paub tas koj txwv hab nwg cov tuabneeg yog tub rog sab tuab. Puab saamswm npau tawg heev yaam le tug maum dais tom haav zoov kws luas coj cov mivnyuas moog lawm. Dua le ntawd koj txwv yog tug kws txawj ua rog heev hab mo ntuj nwg yuav tsw nrug nwg cov tub rog pw ua ke. 9Swm saib, taamswm nuav nwg moog nraim rua huv lub qhov lossws nyob dua rua ib qho lawm. Thaus koj cov tub rog moog ntaus rog thawj zag es qee leej raug tuag, leejtwg nov los yuav has tas, ‘Axaloo cov tub rog raug tua tuag.’ 10Tes txawm yog cov tub rog kws sab tuab hab lub sab zoo yaam nkaus le tug tsuv ntxhuav los yuav ntshai sab yaaj taag, vem cov Yixayee suavdawg yeej paub tas koj txwv yog tug kws muaj zug heev hab nwg cov tub rog kuj sab tuab. 11Kuv le lug qha koj yog le nuav, koj sau cov Yixayee suavdawg txwj ntawm lub moos Ntaaj moog txug lub moos Npe‑awsenpa ua tau tub rog coob yaam nkaus le tej xuab zeb ntawm ntug havtxwv mas koj ua tug kws kaav cov tub rog moog ntaag. 12Mas peb ntswb nwg hovtwg kuj xwj, peb yuav nas ntho nwg yaam nkaus lwg lug rua huv aav. Mas Tavi hab nwg cov tuabneeg yuav tsw tshuav ib tug le. 13Yog nwg thim moog rua huv lub moos twg, cov Yixayee suavdawg yuav coj hlua moog nqug lub moos hov rua huv haav dej, ua kuas tsw tshuav ib lub qai zeb nyob ntawm lub chaw hlo le.” 14Axaloo hab cov Yixayee suavdawg has tas, “Tej lug kws Husai kws yog Akhi cum qha zoo dua tej lug kws Ahithaufee qha.” Yawmsaub tub npaaj tseg ua kuas tej lug zoo kws Ahithaufee qha kov tsw yeej sub Yawmsaub txhad coj tau tej xwm txheej phem lug raug Axaloo.
15Husai txawm has rua Xantau hab Anpiyatha kws ua pov thawj tas, “Ahithaufee tau qha le u le nuav rua Axaloo hab Yixayee cov kev txwj quas laug, hab kuv qha le u le nuav. 16Yog le hov ca le maaj tso tuabneeg moog has rua Tavi has tas, ‘Mo nuav nwg tsw xob su ntawm lub chaw kws hlaa dej moog rua tebchaws moj saab qhua, ca le hlaa hlo moog tsaam tes vaajntxwv hab nwg cov tuabneeg suavdawg yuav raug muab nqog hlo huvsw.’ ” 17Yaunathaa hab Ahima‑a saamswm tog hov ntawm lub qhov dej Eelaukee. Muaj ib tug nkauj qhev pheej moog qha rua ob tug, tes ob tug txhad moog has rua Tavi, tsua qhov ob tug tsw kaav moog rua huv lub nroog rua leejtwg pum. 18Tassws muaj ib tug tub hluas pum ob tug tes txawm moog has rua Axaloo. Ob tug txhad maaj nroog tswv moog txug ib tug yawm lub tsev huv lub moos Npahuli. Yawm hov muaj ib lub qhov dej nyob ntawm tog tsev, ob tug txawm nqeg moog nyob huv lub qhov ntawd. 19Tug yawm hov quaspuj txawm muab ntaub lug npug lub ncauj qhov hab muab qoob lug zab rua sau, tsw muaj leejtwg paub le. 20Thaus Axaloo cov tub teg tub taw tuaj txug ntawm tug quaspuj hov lub tsev, puab txawm nug tas, “Ahima‑a hab Yaunathaa nyob hovtwg?” Tug quaspuj hov teb tas, “Ob tug hlaa dej moog dhau lawm.” Thaus puab nrhav tsw pum ob tug, puab txawm rov moog rua huv lub nroog Yeluxalee.
21Thaus cov tuabneeg hov rov moog lawd, ob tug le tawm huv lub qhov lug hab moog qha rua vaajntxwv Tavi. Ob tug has rua Tavi tas, “Ca le sawv tseeg maaj nroog hlaa tug dej moog vem yog Ahithaufee tub qha le u le nuav txug koj.” 22Tavi hab nwg cov tuabneeg suavdawg txawm sawv tseeg hlaa tug dej Yalatee moog. Thaus kaaj ntug tes tsw tshuav ib tug kws tsw tau hlaa tug dej Yalatee le.
23Thaus Ahithaufee pum tas puab tsw ua lawv le tej lug kws nwg qha, nwg txawm pem eeb caij neeg luav moog rua nwg lub tsev kws nyob huv nwg lub moos lawm. Thaus nwg tu nwg lub cuab txhwj lawm nwg txawm moog dai cej daab tuag, puab txhad muab nwg log rua huv nwg txwv lub qhov ntxaa.
24Tavi txawm moog txug lub moos Mahana‑i. Tes Axaloo hab cov txwvneej Yixayee suavdawg txawm hlaa tug dej Yalatee moog. 25Axaloo tub tsaa Amaxa ua thawj rog nyob Yau‑a chaw. Amaxa yog ib tug Yixayee hu ua Ithala le tub. Ithala yuav Anpikaa kws yog Naha tug ntxhais hab yog Xeluya kws yog Yau‑a nam tug nam hluas. 26Cov Yixayee hab Axaloo ua yeej nyob huv Kile‑a tebchaws.
27Thaus Tavi tuaj txug ntawm lub moos Mahana‑i, mas Saunpi kws yog Naha tug tub kws yog tuabneeg huv lub moos Lanpa huv Aamoo tebchaws, hab Makhi kws yog Ami‑ee huv lub moos Launtenpa tug tub, hab Npaxilai kws yog tuabneeg Kile‑a nyob huv lub moos Laukeli, 28puab coj tej txaaj pw tej phaaj tej laujkaub aav, hab tej mog tej qeb tej moov tej qeb kib tej taum laag taum pauv, 29hab zwb ntaab hab kua mig nyeem hab tej yaaj hab tej thooj nyuj mig nkoog tuaj pub rua Tavi hab nwg cov tuabneeg noj. Puab has tas, “Cov tuabneeg ntawd tshaib hab tsaug leeg heev hab nqhes dej rua huv tebchaws moj saab qhua.”

17

Hu-sai làm hỏng kế hoạch của A-hi-tô-phe

1A-hi-tô-phe lại nói với Áp-sa-lôm: “Xin để tôi tuyển mười hai nghìn quân, và tôi sẽ lên đường đuổi theo Đa-vít ngay đêm nay. 2Tôi sẽ tấn công trong lúc ông ấy đang mệt mỏi, chán nản, và làm cho ông ấy kinh khiếp; tất cả những người theo ông ấy sẽ chạy trốn, và tôi sẽ giết một mình nhà vua mà thôi. 3Như vậy, tôi sẽ đưa toàn dân trở về với bệ hạ. Cái chết của người mà bệ hạ đang truy tìm sẽ làm cho mọi người quay về với bệ hạ, và tất cả dân chúng sẽ được yên ổn.” 4Áp-sa-lôm và tất cả trưởng lão Y-sơ-ra-ên đều hài lòng với kế hoạch nầy.
5Nhưng Áp-sa-lôm nói: “Hãy gọi Hu-sai, người Ạt-kít, đến để chúng ta cũng nghe ý kiến của ông ấy nữa.” 6Khi Hu-sai đến, Áp-sa-lôm nói với ông: “A-hi-tô-phe đã nói như vậy, chúng ta có nên làm theo lời ông ấy không? Nếu không, ông cho biết ý kiến.” 7Hu-sai nói với Áp-sa-lôm: “Lần nầy, kế hoạch của A-hi-tô-phe không được hay.” 8Hu-sai nói tiếp: “Bệ hạ đã biết vua cha và các thuộc hạ người là những dũng sĩ; lòng họ đang cay đắng như gấu mẹ mất con trong rừng. Hơn nữa, vua cha là một chiến sĩ đầy kinh nghiệm, người sẽ không nghỉ đêm với quân lính đâu. 9Lúc nầy, chắc người đang ẩn núp trong hầm hố hay một nơi nào đó. Nếu ngay trận đầu, một số quân ta bị thương vong, thì bất cứ ai nghe cũng sẽ nói: ‘Phe của Áp-sa-lôm đã bị đánh bại.’ 10Khi ấy, ngay cả người can đảm nhất, dù có gan như sư tử cũng phải khiếp sợ, vì toàn thể Y-sơ-ra-ên biết rằng thân phụ của bệ hạ là một người anh hùng, và các thuộc hạ đều là những người dũng cảm. 11Vậy, tôi bàn thế nầy: Hãy cho tập hợp chung quanh bệ hạ toàn thể Y-sơ-ra-ên, từ Đan cho đến Bê-e Sê-ba, đông như cát biển, rồi bệ hạ sẽ thân hành cầm quân ra trận. 12Chúng ta sẽ tiến đánh Đa-vít bất cứ nơi nào người bị phát hiện, và chúng ta sẽ bủa vây người như sương rơi trên đất; như thế, người và tất cả thuộc hạ không một ai sống sót. 13Nếu người rút vào một thành nào, thì toàn thể Y-sơ-ra-ên sẽ đem dây thừng đến, và chúng ta sẽ kéo đổ thành đó xuống thung lũng đến nỗi người ta không còn tìm thấy một viên sỏi nào ở đó.” 14Áp-sa-lôm và tất cả người Y-sơ-ra-ên đều nói: “Kế hoạch của Hu-sai, người Ạt-kít, hay hơn kế hoạch của A-hi-tô-phe.” Vì Đức Giê-hô-va đã quyết định làm hỏng kế hoạch của A-hi-tô-phe, để đem tai họa đến cho Áp-sa-lôm.

Đa-vít được mật báo và trốn thoát

15Bấy giờ, Hu-sai nói với các thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha: “A-hi-tô-phe đã bàn thế nầy thế nầy với Áp-sa-lôm và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, còn tôi thì bàn thế kia thế kia. 16Vậy bây giờ, hãy lập tức sai người báo tin cho Đa-vít: ‘Xin bệ hạ đừng nghỉ đêm tại những chỗ qua sông vào hoang mạc, mà phải qua sông ngay; nếu không, bệ hạ và tất cả những người đi theo sẽ bị tiêu diệt.’”
17Giô-na-than và A-hi-mát đang đứng chờ tin tại Ên Rô-ghên, họ không vào thành vì sợ bị phát hiện. Một đầy tớ gái đến đưa tin cho họ để họ báo lại cho vua Đa-vít. 18Nhưng có một thanh niên thấy họ và báo cho Áp-sa-lôm. Hai người vội vàng đi và đến nhà một người ở Ba-hu-rim. Người nầy có một cái giếng trong sân, và họ xuống đó. 19Vợ của người nầy lấy một tấm bố trải trên miệng giếng, rồi rải thóc lên trên để không ai nghi ngờ gì cả. 20Các thuộc hạ của Áp-sa-lôm đến nhà người phụ nữ nầy và hỏi: “A-hi-mát và Giô-na-than ở đâu?” Bà trả lời: “Họ đã qua suối rồi.” Chúng đi tìm nhưng không gặp, nên trở về Giê-ru-sa-lem.
21Sau khi chúng đi rồi, A-hi-mát và Giô-na-than lên khỏi giếng và đi báo tin cho vua Đa-vít. Họ nói với Đa-vít: “Xin bệ hạ trỗi dậy và nhanh chóng qua sông, vì A-hi-tô-phe đã bàn mưu như thế nầy, thế nầy chống lại bệ hạ.” 22Đa-vít và tất cả những người theo vua đều trỗi dậy qua sông Giô-đanh. Vừa rạng đông, không còn một ai chưa qua sông Giô-đanh.

A-hi-tô-phe chết. – Đa-vít tại Ma-ha-na-im

23Khi A-hi-tô-phe thấy người ta không làm theo kế hoạch của mình thì thắng lừa lên đường trở về nhà ở trong thành của mình. Sau khi sắp xếp việc nhà xong, ông treo cổ tự tử. Người ta chôn ông trong mộ của cha ông.
24Trong khi Đa-vít đi đến Ma-ha-na-im thì Áp-sa-lôm cùng với tất cả người Y-sơ-ra-ên theo ông qua sông Giô-đanh. 25Áp-sa-lôm chỉ định A-ma-sa làm tổng tư lệnh quân đội thay thế Giô-áp. A-ma-sa là con trai của một người Y-sơ-ra-ên tên là Gít-ra, là người đã ăn ở với A-bi-ga-in, con gái của Na-hách, và là chị của Xê-ru-gia, mẹ của Giô-áp. 26Y-sơ-ra-ên và Áp-sa-lôm đóng trại tại đất Ga-la-át.
27Khi Đa-vít đã đến Ma-ha-na-im thì Sô-bi, con của Na-hách, từ thành Ráp-ba của người Am-môn, với Ma-ki, con của A-mi-ên, từ thành Lô Đê-ba, và Bát-xi-lai người Ga-la-át, từ thành Rô-ghê-lim, 28đem giường, bát đĩa, chậu gốm, lúa mì, lúa mạch, bột mì, hột rang, đậu, đậu lăng, và các thứ hột rang khác, 29mật ong, sữa đông, chiên, và phó mát lấy từ sữa bò, đến cho Đa-vít và những người đi theo vua dùng. Vì họ nói rằng: “Dân chúng đã đói khát và mệt mỏi trong hoang mạc.”