6

Yeeb ncuab tuav tswvyim ua phem

1Thaus muaj tuabneeg moog has rua Xaanpala hab Thaunpia hab Kesee, kws yog tuabneeg Alam, hab lwm tug kws ua yeeb ncuab rua peb paub tas kuv tau ua lub ntsaa loog hab khu tej qhov kws pob tav lawm (lub swjhawm ntawd kuv tsw tau nruab txhwb qhov rooj rua ntawm rooj loog), 2mas Xaanpala hab Kesee khaiv tuabneeg tuaj has rua kuv tas, “Thov koj tuaj ntswb peb rua huv ib lub zog ntawm lub taj Aunau.” Tub yog puab tuav huv yuav ua phem rua kuv ntaag. 3Kuv txhad khaiv tuabneeg moog has rua puab tas, “Kuv saamswm ua num tseem ceeb kawg, tuaj tsw tau. Ua caag peb yuav tso num tseg rua thaus kuv tawm moog cuag mej?” 4Mas puab tseed khaiv tuabneeg tuaj has rua kuv le nuav plaub zag, kuv kuj teb puab ib yaam nkaus hab. 5Zag tswb Xaanpala khaiv nwg ib tug tub teg tub taw tuaj cuag kuv ib yaam le qub hab coj ib tsaab ntawv qheb quas lug tuaj. 6Huv tsaab ntawv sau has tas, “Muaj xuv huv ib tsoom tuabneeg hab Kesee kuj has tas, koj hab cov Yutai npaaj sab yuav faav xeeb. Yog le nuav koj txhad ua lub ntsaa loog, hab koj xaav ua puab tug vaajntxwv lawv le tej xuv nuav. 7Hab koj tub tsaa cov xwbfwb cev Vaajtswv lug tshaaj tawm txug koj rua huv Yeluxalee tas, ‘Muaj ib tug vaajntxwv huv Yuta lawm.’ Nwgnuav yuav has tej lug nuav moog rua vaajntxwv paub. Vem le nuav thov koj tuaj es ib sablaaj ua ke.” 8Mas kuv txhad tso tuabneeg moog has rua nwg tas, “Yaam kws koj has kod kuv yeej tsw tau ua le, koj xaav tswvyim lawv le koj lub sab xwb.” 9Tsua qhov puab suavdawg xaav hem kuas peb ntshai, hab xaav tas peb txhais teg yuav tso daag num tseg hab tej num yuav tsw tav. Au Vaajtswv, nwgnuav thov koj txhawb kuv txhais teg tug zug.
10Kuv txawm moog rua huv Ntelaya tug tub Semaya lub tsev, nwg yog Mehethanpee tug xeeb ntxwv, nwg pheej nyob huv tsev xwb, mas Semaya has tas, “Ca ib moog sws ntswb rua huv Vaajtswv lub tuam tsev chaav kws pe Vaajtswv, hab ca ib muab qhov rooj tuam tsev kaw, tsua qhov puab yuav tuaj tua koj, thaus tsaus ntuj puab yuav tuaj tua koj pov tseg.” 11Tassws kuv has tas, “Tuabneeg zoo le kuv yuav txaus tswv lov? Hab tuabneeg zoo le kuv yuav nkaag moog rua huv lub tuam tsev txhad cawm tau sav lov? Kuv tsw moog.” 12Mas kuv nkaag sab hab pum tas, tsw yog Vaajtswv khaiv nwg tuaj tassws yog nwg cev lug tawm tsaam kuv vem Thaunpia hab Xaanpala tau ndav nwg lawm. 13Ob tug ndav nwg tuaj xaav tas yuav ua rua kuv ntshai hab kuv yuav ua le hov txhad ua txhum muaj txem, mas puab txhad le coj tau kuv lub npe moog xyaav sub puab txhad thuaj luag tau kuv. 14Au kuv tug Vaajtswv, thov koj ncu txug Thaunpia hab Xaanpala lawv le tej kws ob tug ua nuav, hab ncu txug Nau‑antiya kws yog tug puj xwbfwb cev Vaajtswv lug hab lwm tug kws cev Vaajtswv lug kws xaav ua kuas kuv ntshai.
15Lub ntsaa loog txhad tav rua nub tim neeg nkaum tswb lub hli Elu, huvsw peb ua tswb caug ob nub. 16Thaus peb cov yeeb ncuab suavdawg tau nov, ib tsoom tebchaws kws nyob ib ncig peb kuj ntshai hab poob ntsej muag taag, tsua qhov puab pum tas tej num nuav ua tau tav vem yog muaj peb tug Vaajtswv paab peb. 17Dua le ntawd lub swjhawm ntawd cov kws ua hlub huv Yuta kuj xaa ntau tsaab ntawv moog rua Thaunpia, hab Thaunpia tej ntawv kuj tuaj txug puab. 18Tsua qhov cov Yuta muaj ntau leej nrug Thaunpia cog lug sws raug zoo vem nwg yog Alag tug tub Sekhaniya le vauv, hab nwg tug tub Yehauhanaa tau yuav Npelekhiya tug tub Mesulaa le ntxhais ua quaspuj. 19Puab has txug tej qhov zoo kws Thaunpia ua rua kuv noog hab coj kuv tej lug moog qha rua nwg. Mas Thaunpia xaa ntawv tuaj hem ua kuas kuv ntshai.

6

Phe đảng mới nghịch với Nê-hê-mi. – Đức tin và lòng bền đỗ của người

1 Xảy khi San-ba-lát, Tô-bi-gia, Ghê-sem, là người A-rập, và các thù nghịch chúng tôi khác, hay rằng tôi đã xây sửa vách thành rồi, không còn nơi hư lủng nào nữa, dầu cho đến lúc ấy tôi chưa tra cánh cửa, 2 thì San-ba-lát và Ghê-sem, sai đến nói với tôi rằng: Hãy đến, ta sẽ gặp nhau trong một làng nào tại trũng Ô-nô. Nhưng chúng có ý làm hại tôi. 3 Tôi sai sứ giả đến nói cùng chúng rằng: Ta mắc làm công việc lớn, xuống không đặng. Lẽ nào để công việc dứt trong khi bỏ nó đặng đi xuống với các ngươi? 4 Chúng sai nói với tôi bốn lượt như vậy; song tôi đáp lại với chúng cũng y nhau. 5 Lần thứ năm, San-ba-lát sai kẻ tôi tớ người, cũng như cách cũ, có cầm thơ không niêm nơi tay; 6 trong thơ có viết rằng: Trong các dân tộc người ta nghe đồn và Gát-mu nói rằng: Ông và người Giu-đa toan nhau dấy loạn; tại cớ ấy, nên ông mới xây sửa vách thành; và cứ theo lời đồn đó, tất ông muốn lên làm vua của chúng. 7 Lại ông có lập những tiên tri đặng truyền giảng về ông tại trong Giê-ru-sa-lem rằng: Có một vua trong xứ Giu-đa! Bây giờ người ta chắc sẽ tâu cho vua nghe cũng các việc ấy; vậy, hãy đến, để chúng ta nghị luận với nhau. 8 Tôi sai nói với người rằng: Những điều ngươi nói, chẳng có ai làm chút nào; nhưng chính trong lòng ngươi có đặt nó ra. 9 Vì chúng nó muốn nhát cho chúng tôi hết thảy đều sợ hãi; chúng nó rằng: Tay của chúng nó sẽ bị mỏi mệt, không làm công việc nữa. --- Vậy bây giờ, hỡi Chúa, hãy làm cho tay tôi mạnh mẽ.
10 Đoạn, tôi đi đến nhà của Sê-ma-gia, con trai của Đê-la-gia, cháu của Mê-hê-ta-bê-ên (người ấy đã rút ẩn ở đó); người nói rằng: Chúng ta hãy gặp nhau tại trong nhà của Đức Chúa Trời, chính giữa đền thờ, rồi chúng ta sẽ đóng các cửa đền thờ lại; vì chúng nó sẽ đến giết ông; ấy lúc ban đêm mà chúng nó toan đến giết ông. 11 Tôi nói: một người như tôi đây sẽ chạy trốn ư? Người nào như tôi đây vào trong đền thờ mà lại được sống sao? Tôi không vào đâu. 12 Tôi nhìn biết chẳng phải Đức Chúa Trời có sai người đến, vì người nói lời tiên tri đó nghịch với tôi. Tô-bi-gia và San-ba-lát đã mướn người vậy. 13 Vì tại đó, người được trả tiền công đặng khiến tôi sợ hãi, dụ tôi phạm tội, hầu cho chúng nó có cớ đồn tiếng xấu xa, và làm sỉ nhục tôi. 14 Đức Chúa Trời tôi ôi! xin hãy nhớ Tô-bi-gia và San-ba-lát, tùy theo các công việc nầy mà hai người đã làm; xin cũng nhớ đến Nô-a-đia, nữ tiên tri, và các tiên tri khác đã muốn làm cho tôi sợ hãi!
15 Vậy, ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun, vách thành sửa xong, hết năm mươi hai ngày. 16 Khi những thù nghịch chúng tôi hay được điều đó, thì các dân tộc chung quanh chúng tôi đều sợ hãi và lấy làm ngã lòng; vì chúng nó nhìn biết rằng công việc nầy thành được bởi Đức Chúa Trời của chúng tôi. 17 Cũng trong những ngày ấy, có các người tước vị của xứ Giu-đa gởi lắm thơ từ cho Tô-bi-gia, và Tô-bi-gia đáp thơ gởi lại cho chúng. 18 Vì tại Giu-đa có nhiều kẻ đã thề kết hiệp với người, bởi người là rể của Sê-ca-nia, con trai của A-ra; và Giô-ha-nan, con trai người, đã cưới con gái của Mê-su-lam, là con trai của Bê-rê-kia. 19 Chúng cũng nói trước mặt tôi những việc tốt lành của người và chúng học lại cho người các lời của tôi. Còn Tô-bi-gia gởi thơ để làm cho tôi sợ hãi.