24

Yô-at Puo Cruang Yuda

1Yô-at cỡt puo cruang Yuda bo án mbỡiq tapul cumo. Án cỡt sốt tâng vil Yaru-salem pỗn chít cumo. Mpiq án ramứh Si-biah tễ vil Bêr-si-ba. 2Án táq máh ranáq Yiang Sursĩ sâng bũi pahỡm, bo Yê-hôi-ada, la cũai tễng rit sang, noâng tamoong. 3Yê-hôi-ada rưoh bar náq lacuoi yỗn puo Yô-at; bar náq mansễm nâi canỡt máh con samiang cớp máh con mansễm yỗn Yô-at.
4Toâq án bữn cỡt puo dũn chơ, Yô-at chanchớm ễ atức loah Dống Sang Toâr. 5Án ớn máh cũai tễng rit sang cớp tỗp Lê-vi pỡq dũ vil chũop cruang Yuda, cớp ĩt práq thễq tễ cũai proai dũ náq samoât alới dốq yỗn cu cumo dŏq atức loah Dống Sang Toâr. Yô-at ớn alới táq toâp, ma tỗp Lê-vi táq yũt lứq. 6Yuaq ngkíq, án ớn Yê-hôi-ada ca sốt máh cũai tễng rit sang, yỗn toâq pỡ án cớp án blớh neq: “Nŏ́q anhia tỡ bữn nhêng salĩq tỗp Lê-vi ĩt práq thễq tâng cruang Yuda cớp tâng vil Yaru-salem samoât Môi-se, cũai táq ranáq Yiang Sursĩ, khoiq ớn cũai proai rachuai Dống Sang Aroâiq?”
7Bữn tỗp con samiang Atha-lia, la mansễm bữn mứt loâi lứq, alới khoiq mut rapốn tâng Dống Sang Toâr, dếh ĩt crơng radỡng dŏq táq rit sang yiang Ba-al ễn.
8Puo Yô-at ớn tỗp Lê-vi táq muoi lám hĩp yỗn cỡt ntốq noau dŏq práq, chơ dŏq bân ngoah toong mut Dống Sang Toâr. 9Tỗp alới pau atỡng chũop vil Yaru-salem cớp cruang Yuda, dũ náq cũai cóq dững práq thễq yỗn dống sang Yiang Sursĩ, samoât Môi-se, la cũai táq ranáq Yiang Sursĩ, khoiq ớn bo alới ỡt tâng ntốq aiq tễ nhũang chơ. 10Nheq tữh cũai sốt cớp cũai proai sâng bũi pahỡm yỗn práq thễq. Alới chóq práq ki tâng hỗp ki toau poân. 11Dũ rangái tỗp Lê-vi cóq dững hỗp ki pỡ máh cũai ayững atĩ puo, cũai ca bữn mpỗl tễ ranáq nâi. Dũ trỗ toâq práq poân tâng hỗp, cũai chĩc choâiq yỗn puo cớp muoi noaq ranễng cũai sốt tỗp tễng rit sang ĩt toâp práq tễ hỗp, chơ dững dŏq loah hỗp bân ntốq tiaq. Cu rangái tỗp alới táq níc ngkíq; chơ alới parỗm práq yỗn sa‑ữi.
12Moâm ki, puo cớp Yê-hôi-ada chiau práq nâi yỗn pỡ cũai nhêng salĩq ranáq atức Dống Sang Toâr. Chơ tỗp alới ĩt práq ki chang cũai chiang co, chiang aluang, chiang tac, cớp chiang sapoan dŏq atức loah Dống Sang Toâr. 13Dũ náq cũai táq ranáq cutóng lứq, cớp tỗp alới atức Dống Sang Toâr yỗn tamái loah patoat tiaq, cớp táq yỗn khâm clữi tễ nhũang ễn. 14Toâq ranáq atức loah moâm nheq chơ, máh yễng cớp práq ca noâng clữi, alới chiau yỗn puo cớp Yê-hôi-ada dŏq táq tangan côm cớp crơng canŏ́h tâng Dống Sang Toâr. Bo Yê-hôi-ada noâng tamoong, tỗp alới dững níc crơng chiau sang pỡ Dống Sang Toâr.
15Toâq Yê-hôi-ada bữn muoi culám pái chít cumo, chơ án cuchĩt. 16Noau tứp án tâng ping puo pỡ Vil Davĩt, yuaq án táq moang ranáq o yỗn tỗp proai I-sarel, cớp yỗn Yiang Sursĩ, dếh yỗn Dống Sang Toâr hỡ.
17Toâq vớt Yê-hôi-ada cuchĩt, máh cũai sốt tâng cruang Yuda achũor puo Yô-at yỗn tamứng santoiq tỗp alới ễn. 18Yuaq ngkíq, máh cũai proai tỡ bữn sang toam noâng Yiang Sursĩ, Ncháu achúc achiac alới, tâng Dống Sang Toâr. Ma tỗp alới tabŏ́q pỡq cucốh máh tanũl dŏq sang yiang Asê-ra. Cỗ tian tễ ranáq lôih trỗ nâi, ngkíq Yiang Sursĩ sâng cutâu mứt chóq máh cũai proai Yuda cớp máh cũai tâng vil Yaru-salem. 19Ma Yiang Sursĩ noâng ớn máh cũai tang bỗq án pỡq atỡng tỗp alới yỗn píh loah chu án, ma cũai proai tỡ bữn tamứng. 20Chơ Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt Sa-chari con samiang Yê-hôi-ada, cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ. Chơ án yuor tayứng bân ntốq ki choâng moat máh cũai proai, cớp pai casang neq: “Yiang Sursĩ la Ncháu anhia blớh neq: Cỗ nŏ́q tỗp anhia tỡ bữn tamứng máh ŏ́c án khoiq patâp, cớp cỗ nŏ́q anhia ntôm dững atoâq ranáq cuchĩt pứt pỡ anhia? Yuaq anhia khoiq calỡih táh án, ngkíq án pupứt táh nheq tỗp anhia.”
21Ma puo Yô-at cớp máh cũai proai pruam chuaq ralíh chóq Sa-chari. Ngkíq tỗp alới ĩt tamáu, chơ tám chóq án tâng nchŏh Dống Sang Toâr toau án cuchĩt. 22Puo Yô-at tỡ bữn sanhữ máh ranáq o Yê-hôi-ada la mpoaq Sa-chari, khoiq táq chóq án, ma án cachĩt Sa-chari. Ma nhũang Sa-chari ta-ŏh rangứh, án cu‑ỗi pai neq: “Cứq sễq Yiang Sursĩ nhêng chu máh ranáq mới ntôm táq sanua, cớp yỗn mới roap tôt!”

Ranáq Yô-at Táq Moâm

23Tâng cumo ki, toâq catữ aluang acứp loah sala, tỗp tahan Si-ri toâq chíl cruang Yuda cớp vil Yaru-salem. Tỗp alới cachĩt dũ náq máh cũai plỡ, cớp alới pũr nheq máh crơng, chơ dững achu yỗn puo alới tâng vil Damac. 24Tỗp Si-ri bữn tahan bĩq lứq, ma Yiang Sursĩ táq yỗn alới chíl riap tahan tỗp Yuda ca clứng lứq, cỗ tian máh cũai proai calỡih táh chíq Yiang Sursĩ, la Ncháu achúc achiac alới. Puo Yô-at roap tôt na rana nâi. 25Án chũl hâp lứq, cớp vớt cũai par‑ũal carlũn loah chơ, bữn bar náq cũai ayững atĩ án ễn chuaq ngê ễ táq án, cớp cachĩt án tâng cachơng án bếq; alới carláh dỡq yỗn con samiang Yê-hôi-ada la cũai tễng rit sang, án ca Yô-at khoiq cachĩt. Noau tứp Yô-at tâng Vil Davĩt, ma tỡ cỡn tâng ping noau dốq tứp puo. 26Máh cũai ca chuaq ngê ễ cachĩt án la Sabat con samiang niang Si-miat tễ tỗp Amôn, cớp Yê-hô-sabat con samiang niang Sim-rit tễ tỗp Mô-ap. 27Choâiq ca atỡng tễ máh ranáq tỗp con samiang puo Yô-at táq, máh santoiq noau atỡng sacoâiq tễ án, cớp máh ranáq án atức Dống Sang Toâr, noau khoiq chĩc dŏq nheq. Vớt ki Ama-siah con samiang án ễn chỗn cỡt puo pláih án.

24

Vua Giô-ách Tu Sửa Đền Thờ

1Giô-ách được bảy tuổi khi lên ngôi làm vua, người cai trị tại Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm; mẹ vua tên là Xi-bia, quê ở Bê-e-sê-ba. 2Vua Giô-ách làm điều ngay thẳng trước mắt CHÚA trong suốt thời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. 3Giê-hô-gia-đa cưới cho vua hai vợ và người được các con trai con gái. 4Sau đó vua Giô-ách định tu bổ đền thờ CHÚA. 5Vua triệu tập tất cả những thầy tế lễ và người Lê-vi, bảo họ: “Hãy đi đến mọi người Y-sơ-ra-ên tại các thành Giu-đa đặng thu tiền thuế hằng năm để tu sữa đền thờ Đức Chúa Trời. Các ngươi phải thi hành việc này ngay.” Nhưng những người Lê-vi không thi hành ngay.
6Vua mời thầy thượng tế Giê-hô-gia-đa đến và bảo người: “Tại sao ngươi không đòi hỏi người Lê-vi đem tiền thuế từ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem nộp cho Trại Chứng Cớ như Môi-se, tôi tớ của CHÚA và hội chúng Y-sơ-ra-ên đã qui định?” 7Vì các con cái của bà A-tha-li gian ác kia đã vào cướp đền thờ Đức Chúa Trời, lại còn lấy tất cả những vật thánh trong đền thờ CHÚA dâng cho thần Ba-anh. 8Vua ra lệnh làm một cái rương, đặt tại phía ngoài cổng vào đền thờ CHÚA. 9Bấy giờ người ta kêu gọi cả Giu-đa và Giê-ru-sa-lem hãy đem dâng tiền thuế cho CHÚA như Môi-se, tôi tớ Đức Chúa Trời, đã ấn định cho Y-sơ-ra-ên trong sa mạc. 10Tất cả những người lãnh đạo và toàn dân đều vui vẻ đem tiền dâng bỏ vào rương đến nỗi đầy rương. 11Mỗi khi người Lê-vi đem rương vào cho nhân viên của vua và họ thấy có nhiều tiền thì thư ký của vua và nhân viên của thầy thượng tế sẽ đến đổ tiền trong rương ra và đem rương để lại chỗ cũ. Mỗi ngày họ đều làm như vậy và thu được rất nhiều tiền. 12Vua và thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa giao tiền cho người phụ trách công việc đền thờ CHÚA. Người ta mướn thợ nề, thợ mộc để tân trang đền thờ CHÚA và cũng mướn thợ sắt, thợ đồng sửa chữa đền thờ CHÚA.
13Những người phụ trách bắt đầu làm việc và công việc tiến triển tốt đẹp dưới sự điều khiển của họ. Người ta trùng tu đền thờ CHÚA theo kiểu mẫu nguyên thủy và làm cho vững chắc hơn. 14Sau khi hoàn thành, người ta đem số bạc còn lại cho vua và thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Số bạc ấy được dùng làm các vật dụng cho đền thờ CHÚA, tức là những vật dụng cho việc phụng vụ, cho tế lễ thiêu, những vá múc và vật dụng bằng vàng bằng bạc. Suốt đời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, người ta luôn luôn dâng tế lễ thiêu trong đền thờ CHÚA.
15Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa sống đến già, tuổi cao; người qua đời lúc 130 tuổi. 16Người ta chôn người trong thành Đa-vít, cùng với các vua vì người đã làm việc tốt lành cho Y-sơ-ra-ên, cho Đức Chúa Trời và đền thờ Ngài.
17Sau khi Giê-hô-gia-đa qua đời, các người lãnh đạo Giu-đa đến chầu vua; bấy giờ vua nghe theo lời họ. 18Chúng từ bỏ đền thờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, đi phụng vụ trụ A-sê-ra và các thần tượng. Vì tội này cơn thịnh nộ của Chúa đổ xuống Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 19Ngài sai các tiên tri đến để đem họ trở về với CHÚA và cảnh cáo họ nhưng họ không chịu nghe.
20Thần của Đức Chúa Trời đến với Xa-cha-ri, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, người đứng trước dân chúng và nói: “Đức Chúa Trời phán như vầy: ‘Tại sao các ngươi không vâng theo các điều răn của CHÚA, vì thế các ngươi sẽ không thịnh vượng được. Vì các ngươi đã từ bỏ CHÚA nên Ngài cũng từ bỏ các ngươi.’ ”
21Nhưng họ âm mưu chống lại ông và do lệnh vua họ ném đá giết ông tại sân đền thờ CHÚA. 22Vậy, vua Giô-ách không nhớ đến sự nhân từ của Giê-hô-gia-đa, cha của Xa-cha-ri, đối với vua mà giết con trai người đi. Khi Xa-cha-ri sắp chết đã nói: “Xin CHÚA thấy điều này và báo trả.”
23Vào khoảng cuối năm, quân Sy-ri kéo đến tấn công vua Giô-ách. Chúng xâm chiếm Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, tàn sát tất cả những người lãnh đạo trong dân, chuyên chở mọi chiến lợi phẩm về cho vua của họ ở Đa-mách. 24Mặc dù quân Sy-ri chỉ có ít người kéo đến, nhưng CHÚA đã trao đoàn quân rất đông đảo vào tay chúng vì họ đã từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình. Quân Sy-ri đã trừng trị Giô-ách. 25Khi quân Sy-ri rút lui, chúng bỏ vua lại, đang bị thương nặng; các thuộc hạ âm mưu chống vua vì nợ máu của các con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa; họ giết vua tại trên giường. Vua chết và được chôn cất trong thành Đa-vít nhưng không được chôn tại các lăng tẩm của các vua.
26Những người âm mưu chống lại vua là Xa-bát, con trai bà Si-mê-át, người Am-môn, và Giô-xa-bát, con trai Sim-rít, một phụ nữ Mô-áp. 27Câu chuyện về các con của vua, nhiều lời công bố chống lại vua và việc trùng tu đền thờ Đức Chúa Trời đều được ghi trong các phần chú thích trong các sách của các vua. A-ma-xia, con trai vua lên ngôi kế vị.