11

H'Athali Plah Mă Jhưng Mtao

(II KYD 22:10–23:21)

1Tơdah H'Athali amĭ Y-Ahasia ƀuh anak êkei ñu djiê leh, ñu kgŭ leh anăn bi rai hĕ jih jang găp djuê mtao. 2Ƀiădah H'Jôsêba anak mniê mtao Y-Jôram, adei mniê Y-Ahasia, mă Y-Jôas anak êkei Y-Ahasia leh anăn tlĕ mă gơ̆ mơ̆ng phung anak êkei mtao arăng dơ̆ng bi mdjiê, leh anăn ñu dưm gơ̆ leh anăn mniê kiă kriê gơ̆ hlăm sa boh adŭ pĭt, mdăp gơ̆ kơ H'Athali. Kyuanăn arăng amâo bi mdjiê gơ̆ ôh, 3leh anăn gơ̆ dôk mbĭt hŏng ñu êjai năm thŭn, mdăp hlăm sang Yêhôwa êjai H'Athali kiă kriê čar.
4Ƀiădah hlăm thŭn tal kjuh Y-Jêhôida tiŏ nao arăng atăt ba phung khua kahan kơ phung Karit leh anăn phung kahan gak, leh anăn brei digơ̆ hriê kơ ñu hlăm sang Yêhôwa. Ñu ngă klei bi mguôp hŏng digơ̆ leh anăn brei digơ̆ kat asei hlăm sang Yêhôwa. Leh anăn ñu bi êdah kơ digơ̆ anak êkei mtao. 5Ñu mtă kơ digơ̆, “Anei klei diih srăng ngă: sa kdrêč hlăm tlâo phung diih phung dơ̆ng mdei bruă hruê sabat leh anăn kiă sang mtao 6(sa kdrêč hlăm tlâo phung mkăn dôk ti ƀăng jang Sur, leh anăn sa kdrêč hlăm tlâo mkăn dôk ti ƀăng jang ti tluôn phung gak) srăng gak sang mtao. 7Leh anăn dua êpul hlăm phung diih, phung dơ̆ng mă bruă hruê sabat leh anăn gak sang Yêhôwa, 8srăng wang mtao, grăp čô djă mnơ̆ng bi blah. Hlei pô hriê giăm hŏng phung kahan brei diih bi mdjiê hĕ. Dôk mbĭt hŏng mtao tơdah ñu kbiă leh anăn tơdah ñu mŭt.”
9Phung khua kahan ngă tui si jih klei Y-Jêhôida khua ngă yang mtă leh. Grăp čô khua kahan atăt ba phung kahan ñu, phung dơ̆ng mdei hruê sabat, mbĭt hŏng phung dơ̆ng mă bruă hruê sabat, leh anăn diñu hriê kơ Y-Jêhôida khua ngă yang. 10Khua ngă yang brei kơ phung khua kahan kju leh anăn khil jing leh dŏ Mtao Đawit, dŏ anăn dôk hlăm sang Yêhôwa. 11Phung gak dôk dơ̆ng, grăp čô djă mnơ̆ng ñu bi blah, mơ̆ng tĭng dhŭng sang truh kơ tĭng dưr sang, jŭm dar knưl leh anăn sang. 12Ñu atăt ba anak êkei mtao, leh anăn mđua đuôn mtao ti boh kŏ gơ̆, leh anăn brei klei hưn kơ gơ̆; leh anăn diñu hưn klei gơ̆ jing mtao leh anăn trôč êa ƀâo mngưi kơ gơ̆. Diñu pah kngan leh anăn lač, “Mtao lă lar!”
13Tơdah H'Athali hmư̆ ênai phung gak leh anăn phung ƀuôn sang, ñu mŭt hlăm sang Yêhôwa, nao kơ phung ƀuôn sang. 14 Leh anăn tơdah ñu dlăng, nĕ anei mtao dôk dơ̆ng giăm kmeh tui si klei bhiăn, phung khua kahan leh anăn phung ayŭ ki dôk ti djiêu mtao, leh anăn jih jang phung ƀuôn sang hlăm lăn čar hơ̆k mơak leh anăn ayŭ ki. H'Athalia hiêk čhiăm ao ñu leh anăn ur, “Klei lhiăr! Klei lhiăr yơh!” 15Leh anăn Y-Jêhôida khua ngă yang mtă kơ phung khua kahan, “Atăt ba ñu ti tač plah wah phung kahan; leh anăn bi mdjiê hĕ hŏng đao gưm hlei pô tui hlue ñu.” Kyuadah khua ngă yang lač, “Đăm bi mdjiê ñu ôh hlăm sang Yêhôwa.” 16Snăn digơ̆ mă ñu, leh anăn ñu êbat ti êlan aseh mŭt kơ sang mtao, leh anăn tinăn yơh arăng bi mdjiê hĕ ñu.
17Y-Jêhôida ngă klei bi mguôp hdơ̆ng Yêhôwa hŏng mtao leh anăn hŏng phung ƀuôn sang, čiăng kơ diñu srăng jing phung ƀuôn sang Yêhôwa; leh anăn hdơ̆ng mtao hŏng phung ƀuôn sang msĕ mơh. 18Leh anăn jih jang phung ƀuôn sang hlăm čar nao kơ sang yang Baal leh anăn ruh gơ̆, bi mčah hĕ đơ điêt knưl leh anăn rup gơ̆, leh anăn diñu bi mdjiê Y-Matan khua ngă yang kơ yang Baal ti anăp knưl. Khua ngă yang dưm phung gak kiă kriê sang Yêhôwa. 19Ñu mă phung khua kahan, phung Karit, phung gak, leh anăn jih jang phung ƀuôn sang hlăm čar; leh anăn diñu atăt ba mtao trŭn mơ̆ng sang Yêhôwa, êbat ti êlan ƀăng jang phung gak nao kơ sang mtao. Ñu dôk gŭ ti jhưng mtao phung mtao. 20Snăn jih jang phung ƀuôn sang hlăm čar hơ̆k mơak, leh anăn ƀuôn dôk êđăp ênang leh arăng bi mdjiê H'Athali hŏng đao gưm ti sang mtao.

Klei Y-Jôas Kiă Kriê Čar Yuđa

(II KYD 24:1-27)

21Y-Jôas mâo kjuh thŭn tơdah ñu dơ̆ng kiă kriê.

11

A-tha-lia giết các con của vua Giu-đa

1Khi A-tha-lia, mẹ A-cha-xia, thấy con mình đã chết liền giết sạch mọi người trong hoàng gia.
2Nhưng Giô-sê-ba, con gái vua Giô-ram và là chị của A-cha-xia, bắt Giô-ách, con trai A-cha-xia. Trong khi các con trai vua đang bị giết thì cô bồng trộm Giô-ách đem đi giấu. Cô mang Giô-ách và vú nuôi để trong một phòng ngủ giấu khỏi A-tha-lia nên cậu ta không bị giết.
3Cậu trốn trong đền thờ của CHÚA trong sáu năm cùng với người vú nuôi. Trong khi đó A-tha-lia cai trị trên xứ.
4Đến năm thứ bảy Giê-hô-gia-đa mời các cấp chỉ huy hàng trăm người Ca-rít và binh sĩ phòng vệ lại. Ông mang họ vào trong đền thờ của CHÚA và kết ước với họ. Ông bắt họ tuyên thệ trung thành trong đền thờ CHÚA rồi ông trình diện con trai vua cho họ.
5Ông ra chỉ thị như sau, “Các ngươi phải làm thế nầy. Một phần ba các ngươi cứ lên phiên gác cung vua vào ngày Sa-bát. 6Một phần ba các ngươi sẽ có mặt ở Cổng Su-rơ và một phần ba còn lại sẽ có mặt ở cổng phía sau toán canh gác. Như thế các ngươi sẽ canh phòng đền thờ. 7Hai nhóm xuống phiên gác có nhiệm vụ bảo vệ đền thờ của CHÚA cho vua. 8Tất cả các ngươi phải đứng vây quanh vua, mỗi người cầm vũ khí trong tay. Hễ ai đến gần vua thì các ngươi phải giết nó. Khi vua đi vào ra lúc nào các ngươi cũng phải đi sát bên vua.”
9Các viên chỉ huy những toán một trăm người vâng theo mọi điều thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa căn dặn. Mỗi người đưa những binh sĩ dưới quyền lên phiên gác trong ngày Sa-bát và những binh sĩ xuống phiên trong ngày đó. Họ đến trình diện thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. 10Ông trao cho các viên chỉ huy những giáo và khiên vốn thuộc về vua Đa-vít và xưa nay vẫn được cất giữ trong đền thờ CHÚA. 11Rồi mỗi binh sĩ canh gác đứng vào vị trí, trong tay cầm vũ khí. Từ phía nam cho đến phía bắc của đền thờ đều có lính gác. Họ đứng quanh bàn thờ và đền thờ, để bảo vệ tứ phía cho vua. 12Giê-hô-gia-đa mang con trai vua ra, đội mão triều lên đầu và trao cho cậu một bản giao ước. Họ cử cậu lên làm vua và đổ dầu ô liu trên cậu. Rồi tất cả vỗ tay tung hô, “Vua vạn tuế!”
13Khi A-tha-lia nghe tiếng ồn ào của các lính canh và dân chúng thì bà đi đến tìm họ ở đền thờ của CHÚA. 14Bà nhìn và vô cùng ngạc nhiên khi thấy vua đang đứng bên cây trụ theo thông lệ. Các sĩ quan và các người thổi kèn đứng bên cạnh vua, còn tất cả dân chúng trong xứ rất hân hoan và đang thổi kèn. A-tha-lia liền xé quần áo mình và la lên, “Phản loạn, phản loạn!”
15Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa ra lệnh cho các viên chỉ huy hàng trăm người là những người chỉ huy quân đội. Ông bảo, “Hãy lôi bà ra khỏi hàng quân và hễ ai đi theo bà thì giết chết.” Ông ra lệnh nầy vì ông đã bảo, “Không nên giết A-tha-lia trong đền thờ CHÚA.”
16Vậy họ bắt bà và mang đến cổng ngựa gần cung vua, rồi giết bà tại đó.
17Sau đó Giê-hô-gia-đa lập giao ước với CHÚA và vua cùng dân chúng để họ làm dân riêng cho Ngài. Ông cũng lập ước giữa vua với dân chúng.
18Tất cả dân cư trong xứ kéo đến phá sập đền thờ Ba-anh, đập bể bàn thờ và các hình tượng nó. Họ cũng giết Mát-tanh, thầy tế lễ của Ba-anh ngay trước bàn thờ.
 Rồi thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đặt lính gác đền thờ CHÚA.
19Ông mang các viên chỉ huy các toán hàng trăm người cùng những người Ca-rít, và các lính canh cùng toàn thể dân cư trong xứ. Họ đồng mang vua ra khỏi đền thờ CHÚA và đưa vào cung vua qua cổng lính canh. Rồi vua lên ngồi trên ngai vua. 20Tất cả dân chúng trong xứ rất vui mừng, Giê-ru-sa-lem được hoà bình vì A-tha-lia đã bị giết bằng gươm nơi cung vua.
21Giô-ách được bảy tuổi khi lên làm vua.