18

Nau Khĭt Y-Apsalôm

1Y-David kơp phung tahan tĭng păng, jêh ri dơm kôranh ma du rbăn nuyh, jêh ri kôranh ma du rhiăng nuyh. 2Y-David prơh hăn phung tahan, du kô̆ tâm pe Y-Jôap mât uănh, du kô̆ tâm pe Y-Abisai, kon buklâu Y-Sêruya, oh Y-Jôap mât uănh, du kô̆ tâm pe Y-Itai buklâu Hitit mât gai. Jêh ri hađăch lah ma phung tahan, "Gâp nơm tâm ban lĕ mra hăn ndrel ma khân may." 3Ƀiălah phung tahan lah, "May mâu mra hăn ôh, yorlah tơlah hên du, khân păng mâu mra chrê ma hên ôh. Tơlah du n'gul phung hên khĭt, khân păng mâu mra chrê ma hên lĕ; ƀiălah may jêng du rmưn hên. Pônây, ueh lơn may gŭ tâm ƀon, prơh bu hăn kơl hên. 4Hađăch lah ma khân păng, "Moh nau gâp mra ƀư khân may mĭn jêng ueh lơn." Pônây, hađăch dâk ta meng mpông pêr dôl lĕ rngôch phung tahan du luh hăn phung rhiăng nuyh jêh ri phung rbăn nuyh. 5Hađăch ntĭnh ma Y-Jôap, ma Y-Abisai, jêh ri ma Y-Itai, "Yor ma gâp, ăn khân may ƀư ma nau rdơ̆ ma bu ndăm Y-Apsalôm." Lĕ rngôch phung ƀon lan iăt tơlah hađăch ntĭnh ma lĕ rngôch phung tahan nau ƀư ma Y-Apsalôm.
6Pôri phung tahan du luh hăn tâm mir tâm lơh đah phung Israel; jêh ri khân păng lơh ta nklang krŏng Êphraim. 7Phung oh mon Y-David dơi đah phung tahan Israel; jêh ri nar nây geh nau tâm nkhĭt âk ngăn, bar rmưn nuyh. 8Nau tâm lơh glom lam n'gor bri nây, jêh ri nar nây geh âk bunuyh khĭt roh tâm bri âk lơn đah nau khĭt ma tak đao.
9Phung oh mon Y-David tâm mâp đah Y-Apsalôm ncho du mlâm seh bri; jêh ri seh bri hăn ngor tâm dâng n'gĭng si mbâl, jêh ri păng văk chhŏk yông ta nây dôl seh bri păng nsan nchuăt. 10Geh du huê bunuyh saơ nau nây jêh ri mbơh ma Y-Jôap, lah: "Gâp lĕ saơ jêh Y-Apsalôm văk yông ta kalơ tơm si." 11Y-Jôap lah ma nơm mbơh ma păng nây, "Moh may lah! may hŏ saơ păng hĕ? Mâm ƀư may mâu sreh păng tô̆p ta neh? Tơlah may lĕ ƀư jêh kơt nĕ gâp mra ăn ma may jê̆t glo prăk jêh ri du njăr rse vân bŭt." 12Ƀiălah bu klâu nây lah ma Y-Jôap, "Nđâp tơlah may ăn ma gâp kuăn du rbăn glo prăk kađôi lĕ, gâp mâu yơr ôh ti gâp ƀư ma kon bu klâu hađăch. Yorlah hên tăng jêh nau hađăch ntĭnh ma may, ma Y-Abisai, jêh ri ma Y-Itai, 'Yor gâp king nau rêh bu klâu ndăm Y-Apsalôm! 13Bi tơlah gâp ƀư lơi ma nau rêh păng, (jêh ri mâu geh du ntĭl ndơ ndâp ôh ma hađăch), pôri may nơm mra tâm rdâng đah gâp." 14Y-Jôap lah: "Gâp mâu hôm gơih ôh dĭl jêh gŭ ta aơ iăt nau may." Păng sŏk pe tong hăr, jêh ri ntâp tâm play nuih Y-Apsalôm dôl ôbăl hôm rêh ta kalơ tơm si. 15Jêh ri jê̆t nuyh bu klâu ndăm djôt ndơ Y-Jôap tâm lơh gŭ jŭm Y-Apsalôm, sreh jêh ri nkhĭt ôbăl.
16Jêh nây Y-Jôap uh nŭng, phung ƀon lan lĕ bah jêh tĭng phung tahan Israel; yorlah Y-Jôap nkân khân păng. 17Khân păng sŏk Y-Apsalôm jêh ri mƀăr ôbăl tâm ntu brŏng tâm krŏng, jêh ri bun ta kalơ păng dăp lŭ ăn mpưm. Jêh ri lĕ rngôch phung Israel, ăp nơm phung Israel nchuăt du sĭt ngih vâl păng nơm.
18Y-Apsalôm dôl hôm rêh, geh ndâk ma păng nơm du mlâm gâng kra tâm Rlŭng Hađăch yorlah păng lah: Gâp mâu geh kon buklâu prăp ndray ma amoh gâp." Păng ntơ gâng kra nây, sŏk amoh păng nơm dơm ta gâng nây; kŏ tât nar aơ bu hôm e ntơ jêng gâng kra Y-Apsalôm.
19Jêh ri Y-Ahimas kon bu klâu Y-Sadôk lah, "Ăn gâp nchuăt mbơh ma hađăch nau Yêhôva tâm rklaih jêh păng tă bơh nau dơi phung rlăng păng." 20Y-Jôap lah ma păng, "May mâu mra mbơh nau mbe mban aơ, du nar êng may mra ƀư; nau aơ nau mhe mhan mâu jêng ueh ôh, yorlah kon hađăch lĕ khĭt jêh. 21Y-Jôap lah ma Y-Kus: "Hăn hom nkoch nau aơ ma hađăch nau may lĕ saơ jêh." Y-Kus mbah Y-Jôap, jêh nây nchuăt hăn. 22Rnôk nây Y-Ahimas, kon buklâu Y-Sadôk lah ma Y-Jôap, "Kađôi moh nau tât, ăn gâp nchuăt mbơh tâm ban lĕ tĭng ndô̆ bu klâu Y-Kus." Y-Jôap lah: "Moh ir dât, Hơi nô, yorlah may mâu mra geh nau nkhôm ôh yor nau mhe mhan nây?" 23Păng lah: "Kađôi lĕ moh nau tât, gâp mra nchuăt lĕ." Pôri Y-Jôap lah ma păng, "Nchuăt hom, "Pôri Y-Ahimas nchuăt tĭng trong neh lâng, jêh ri păng rlet bu klâu Y-Kus.
24Y-David gŭ vah vang bar blah mpông pêr. Bi tahan gŭ gak, hao kalơ chor mpông pêr, ta kalơ mpêr, n'gơr măt uănh, saơ du huê bunuyh nchuăt ran. 25Tahan gŭ gak kuăl huy jêh ri lah ma hađăch. Hađăch lah: "Tơlah êng păng, păng văch tât mbơh nau mhe mhan yơh." Jêh ri bunuyh nây tât gơnh ro. 26Nơm gŭ gak saơ đŏng du huê bunuyh êng nchuăt ran; jêh ri bunuyh gak kuăl phung gŭ ta mpông pêr jêh ri lah, "Uănh hom, geh đŏng du huê bunuyh êng nchuăt ran du huê dơm!" Hađăch lah: "Nơm nây tâm ban lĕ leo nau mhe mhan." 27Nơm gŭ gak lah, "Saơ bunuyh nchuăt lor, nâm bu săk jăn Y-Ahimas, kon buklâu Y-Sadôk." Hađăch lah: "Păng jêng du huê bunuyh ueh, jêh ri păng văch mbơh nau mhe mhan ueh." 28Rnôk nây Y-Ahimas nter huy, ma hađăch, "Lĕ rngôch nau jêng ueh." Jêh ri păng chŭn panăp hađăch muh măt păng ta neh jêh ri lah: "Mŏt ton ma Yêhôva Brah Ndu may, nơm jao jêh phung bunuyh yơr ti tâm rdâng đah kôranh gâp hađăch." 29Hađăch lah, "Mâm ƀư ueh lĕ ma buklâu ndăm Y-Apsalôm?" Y-Ahimas plơ̆ sĭt lah: "Tơlah Y-Jôap prơh hăn oh mon may, gâp saơ bu ƀư nau drơu drơu hâu ngăn, ƀiălah gâp mâu gĭt ôh moh nau nây jêng." 30Hađăch lah ma păng, "Veh dâk ta aơ." Pôri păng veh jêh ri kâp ta nây. 31Aơ buklâu Y-Kus tât lĕ jêh ri lah: "Nau mhe mhan ueh ma kôranh gâp hađăch! Yorlah Yêhôva tâm rklaih jêh may nar aơ tă bơh nau dơi lĕ rngôch phung dâk tâm rdâng đah may." 32Hađăch lah ma buklâu Y-Kus, "Mâm ƀư, ueh lĕ ma buklâu ndăm Y-Apsalôm?" Buklâu Y-Kus plơ̆ sĭt lah, "Ăn phung rlăng đah kôranh gâp hađăch jêh ri lĕ rngôch phung dâk tâm rdâng đah may ŭch ƀư mhĭk jêng nâm bu buklâu ndăm nây lĕ!" 33Jêh ri hađăch phit nuih n'hâm hâu ngăn, jêh ri hao tâm jrô ta kalơ mpông pêr jêh ri nhĭm. Dôl păng chuat păng lah: "Hơi kon buklâu gâp Y-Apsalôm, kon buklâu gâp, kon buklâu gâp Y-Apsalôm! Ueh lơn gâp khĭt ntrok may! Hơi Y-Apsalôm kon buklâu gâp! Kon buklâu gâp!"

18

Áp-sa-lôm Bị Bại và Chết

1Ða-vít kiểm điểm quân binh đi theo ông và lập những người chỉ huy các đơn vị ngàn quân và những người chỉ huy các đơn vị trăm quân, 2rồi Ða-vít sai họ ra trận. Ông giao cho Giô-áp chỉ huy một phần ba đạo quân, A-bi-sai con trai bà Xê-ru-gia em Giô-áp chỉ huy một phần ba, và Ít-tai người Ghít-ti chỉ huy một phần ba. Vua cũng nói với quân sĩ, “Chính ta cũng sẽ ra trận với các ngươi.”
3Nhưng quân sĩ nói, “Ngài không nên ra trận với chúng tôi, vì nếu chúng tôi phải bỏ chạy, chúng cũng chẳng quan tâm gì đến chúng tôi. Cho dù chúng tôi có chết một phân nửa, chúng cũng chẳng coi chúng tôi ra gì; nhưng ngài có giá trị bằng mười ngàn người chúng tôi. Vì thế, ngài sẽ làm cho chúng tôi yên tâm hơn nếu ngài cứ ở trong thành và chỉ huy việc tiếp viện.”
4Vua nói với họ, “Ðiều gì các ngươi cho là tốt nhất cho các ngươi, ta sẽ làm theo.” Vậy vua đứng bên cổng thành. Toàn quân xuất trận theo từng đơn vị hằng trăm người và hằng ngàn người. 5Bấy giờ, vua truyền cho Giô-áp, A-bi-sai, và Ít-tai rằng, “Xin nể mặt ta mà nhẹ tay với chàng trai trẻ Áp-sa-lôm.” Toàn thể quân dân đều nghe những lời vua dặn dò các tướng lãnh về việc Áp-sa-lôm.
6Vậy đạo quân đi ra chiến trường để giao chiến với quân I-sơ-ra-ên. Trận chiến đã diễn ra trong rừng Ép-ra-im. 7Quân I-sơ-ra-ên đã bị các tôi tớ của Ða-vít đánh đại bại. Một cuộc tàn sát kinh hoàng đã xảy ra ngày hôm đó; có đến hai mươi ngàn người bị giết. 8Trận chiến lan rộng ra khắp vùng ấy. Ngày hôm đó, số người thiệt mạng vì những hiểm trở trong rừng nhiều hơn số người bị giết bằng gươm. 9Khi ấy Áp-sa-lôm đã bị các tôi tớ của Ða-vít bắt gặp. Số là Áp-sa-lôm cỡi trên một con la, nhưng con la đã lủi vào một nhánh rậm của một cây sồi lớn và tóc ông đã bị vướng vào nhánh của cây sồi ấy. Ông bị treo lơ lửng giữa trời và đất, vì con la ông cỡi đã vuột đi mất. 10Có một người trông thấy cảnh ấy bèn đến báo với Giô-áp, “Này, tôi vừa thấy Áp-sa-lôm đang bị treo lơ lửng dưới nhánh cây sồi.”
11Giô-áp nói với người đến báo cho ông, “Ngươi nói gì? Ngươi có thấy hắn sao? Thế sao ngươi không đánh hắn chết cho rơi xác xuống đất? Nếu ngươi giết hắn ắt ta phải thưởng cho ngươi ba lượng bạc và một cái đai lưng rồi.”
12Người ấy trả lời Giô-áp, “Dù tôi có được ông thưởng đến ba trăm lượng bạc, tôi cũng không dám giơ tay ra giết chết con trai vua. Vì tôi có nghe vua dặn ông, A-bi-sai, và Ít-tai rằng, ‘Hãy coi chừng, đừng để ai tra tay trên chàng trai trẻ Áp-sa-lôm.’ 13Nếu tôi làm trái lệnh vua ắt tôi kết liễu đời mình, vì đâu có gì giấu được vua. Còn ông, lúc ấy chắc chắn ông sẽ phó mặc tôi và lánh xa để khỏi bị liên lụy.”
14Giô-áp nói, “Thôi, ta không muốn mất thì giờ đôi co với ngươi.” Sau đó, ông lấy ba cây giáo đang cầm trong tay đâm xuyên qua tim của Áp-sa-lôm, trong khi ông ấy vẫn còn sống và bị treo lơ lửng dưới nhánh cây sồi. 15Rồi mười người mang binh khí cho Giô-áp vây quanh Áp-sa-lôm, xông vào đánh Áp-sa-lôm, và giết ông ấy. 16Sau đó Giô-áp cho thổi kèn ra lịnh binh sĩ của ông không truy kích quân I-sơ-ra-ên nữa, nhưng hãy trở về. Vậy Giô-áp đã kiềm hãm quân của ông lại. 17Người ta lấy xác của Áp-sa-lôm ném vào một hố lớn trong rừng, rồi lấy đá chất lên trên thành một đống to. Toàn thể quân I-sơ-ra-ên đều bỏ trốn, ai về nhà nấy.
18Khi còn sống, Áp-sa-lôm đã dựng cho mình một bia đá cao lớn trong Thung Lũng Quân Vương; vì ông tự nghĩ, “Ta không còn con trai để lưu danh,” nên ông đã lấy tên ông đặt tên cho bia đá đó. Vì thế người ta vẫn gọi nó là “Ðài Tưởng Niệm Áp-sa-lôm” cho đến ngày nay.

Ða-vít Ðược Tin Áp-sa-lôm Chết

19Bấy giờ, A-hi-ma-a con trai Xa-đốc nói, “Xin cho tôi chạy đi báo tin mừng cho vua, thể nào CHÚA đã giải cứu vua khỏi tay những kẻ thù của người.”
20Giô-áp đáp, “Hôm nay ngươi sẽ không đem tin nầy đến cho vua. Ngươi sẽ đem tin đến cho vua trong dịp khác. Nhưng hôm nay ngươi không nên làm người báo tin cho vua, bởi vì con trai của vua đã chết.”
21Sau đó Giô-áp bảo một người lính vốn là dân Cút, “Hãy đi, báo tin cho vua biết những gì ngươi đã thấy.” Vậy người Cút ấy sấp mình lạy Giô-áp rồi chạy đi. 22Nhưng A-hi-ma-a con trai Xa-đốc nài nỉ với Giô-áp, “Bất kể chuyện gì sẽ xảy ra, xin ông cho phép tôi chạy theo người Cút ấy.”
 Giô-áp đáp, “Chạy theo làm gì, con ơi? Ðem tin nầy con sẽ không được khen thưởng gì đâu.”
23Nhưng ông ấy cứ nài nỉ mãi, “Bất kể sẽ thế nào, xin cho phép tôi chạy đi.”
 Giô-áp nói, “Hãy chạy đi.”
 Vậy A-hi-ma-a chạy đi và theo ngả đồng bằng nên ông qua mặt người Cút.
24Lúc ấy Ða-vít đang ngồi ở khoảng giữa của cổng ngoài và cổng trong của thành. Một người lính canh leo tường lên trên mái cổng thành, phóng tầm mắt để nhìn. Nầy, có một người đang chạy một mình. 25Người lính canh gọi xuống báo tin cho vua. Vua bảo, “Nếu người ấy chạy một mình tức đến để báo tin vui.” Trong khi người ấy đang chạy nhanh và đến gần, 26người lính canh lại thấy một người nữa đang chạy tới. Người lính canh gọi xuống người lính gác cổng thành và báo, “Kìa, có một người nữa cũng chạy tới một mình.”
 Vua nói, “Hắn cũng sẽ báo tin vui.”
27Bấy giờ người lính canh nói, “Tôi nghĩ người chạy trước trông giống A-hi-ma-a con trai Xa-đốc.”
 Vua nói, “Ông ấy là người tốt. Ông đến để báo tin vui.”
28A-hi-ma-a tâu lớn tiếng với vua, “Mọi sự đều tốt đẹp!” Rồi ông sấp mình xuống đất trước mặt vua và nói, “Chúc tụng CHÚA, Ðức Chúa Trời của ngài, Ðấng đã giải thoát ngài khỏi những kẻ đưa tay chống lại đức vua, chúa thượng của tôi.”
29Vua hỏi, “Chàng trai trẻ Áp-sa-lôm có an toàn chăng?”
 A-hi-ma-a trả lời, “Khi Giô-áp sai một tôi tớ của đức vua và tôi, đầy tớ của ngài, tôi thấy có đông người xôn xao, nhưng không rõ là chuyện gì.”
30Vua bảo, “Hãy tránh qua một bên và đứng đó.” Vậy ông tránh qua một bên và đứng đó. 31Ngay lúc ấy, người Cút cũng vừa đến. Người Cút nói, “Có tin mừng cho vua, chúa thượng của tôi, vì hôm nay CHÚA đã đoán phạt tất cả những kẻ đã dấy lên chống lại ngài thay cho ngài.”
32Vua hỏi, “Chàng trai trẻ Áp-sa-lôm có an toàn chăng?”
 Người Cút đáp, “Nguyện những kẻ thù của vua, chúa thượng của tôi, và tất cả những kẻ nào dấy lên làm hại ngài sẽ cùng chung số phận với người trai trẻ ấy.”

Ða-vít Than Khóc Áp-sa-lôm

33Nghe thế vua rất xúc động. Vua vừa đi lên căn phòng phía trên cổng thành vừa khóc. Vua vừa đi vừa nói, “Ôi, Áp-sa-lôm, con ơi! Áp-sa-lôm, con ơi, con ơi! Ước chi cha chết thay con. Ôi, Áp-sa-lôm con ơi, con ơi!”