12

Xamuyee ntuag cov Yixayee

1Xamuyee has rua ib tsoom Yixayee suavdawg tas, “Kuv tub noog txhua yaam kws mej has rua kuv hab kuv tub tsaa ib tug vaajntxwv kaav mej lawm. 2Nua nawj, muaj ib tug vaajntxwv coj mej lawm. Kuv tub laug plaubhau dawb taag lawm, kuv tej tub kuj nrug mej nyob. Hab kuv coj mej txwj thaus hluas lug txug naj nub nwgnuav. 3Kuv nyob ntawm nuav, thov mej ua timkhawv kom kuv rua ntawm Yawmsaub xubndag hab rua ntawm tug kws Yawmsaub tsaa ua vaajntxwv lub xubndag. Kuv tau txeeb leejtwg le nyuj leejtwg le neeg luav? Kuv tau ntxag leejtwg le lossws tau quab yuam leejtwg? Kuv tau yuav nyaj xab ntawm leejtwg txhais teg ua rua kuv lub qhov muag dig? Mej ca le has lug mas kuv yuav thim rov rua mej.” 4Puab has tas, “Koj tsw tau ntxag peb lossws quab yuam peb lossws txeeb ib yaam daabtsw ntawm leejtwg txhais teg le.” 5Tes Xamuyee txawm has rua puab tas, “Yawmsaub hab tug kws Yawmsaub tsaa lug kuj ua timkhawv rua mej nub nua tas mej tsw pum ib yaam daabtsw nyob huv kuv txhais teg.” Puab has tas, “Yawmsaub ua tau timkhawv.”
6Hab Xamuyee has rua cov pejxeem tas, “Yawmsaub yog tug kws tsaa Mauxe hab Aloo hab coj mej tej laug tawm huv Iyi tebchaws lug. 7Yog le nuav mej ca le sawv tuabywv es kuv yuav pav txug tej num huvsw kws Yawmsaub ua cawm mej hab mej tej laug mas mej yuav paub mej tej kev txhum rua ntawm Yawmsaub xubndag. 8Thaus Yakhauj moog rua huv Iyi tebchaws mas mej tej laug quaj thov Yawmsaub, Yawmsaub kuj khaiv Mauxe hab Aloo coj puab tawm huv Iyi tebchaws hab coj puab lug nyob ntawm nuav. 9Tassws puab nov qaab Yawmsaub kws yog puab tug Vaajtswv lawm, Yawmsaub txhad muab puab cob rua huv Xixela kws yog vaajntxwv Yanpi huv lub moos Haxau tug thawj rog txhais teg hab cob rua huv cov Filixatee txhais teg hab muab cob rua huv Mau‑a tug vaajntxwv txhais teg. Mas cov tuabneeg hov txhad ua rog rua mej tej laug. 10Puab quaj thov Yawmsaub tas, ‘Peb tau ua txhum muaj txem lawm tsua qhov peb tau tso Yawmsaub tseg moog ua koom rua tej daab Npa‑aa hab tej daab Athalau. Nwgnuav thov koj cawm peb dim huv peb cov yeeb ncuab txhais teg mas peb yuav ua koom rua koj.’ 11Tes Yawmsaub txhad khaiv Yelunpa‑aa hab Npala hab Yetha hab Xamuyee lug, hab Yawmsaub cawm mej dim huv mej cov yeeb ncuab rua txhua faab, mas mej txhad tau nyob tso sab plhuav. 12Thaus mej pum Naha kws yog cov Aamoo tug vaajntxwv tuaj ua rog rua mej, mas txawm yog mej tug Vaajtswv Yawmsaub tub yog mej tug vaajntxwv lawm los mej tseed has rua kuv tas, ‘Peb tsw noog koj has, peb yuav muaj ib tug vaajntxwv kaav peb.’ 13Nwgnuav ca le saib tug vaajntxwv kws mej tau xaiv, yog tug kws mej thov. Saib maj, Yawmsaub tub tsaa vaajntxwv kaav mej lawm. 14Yog mej yuav fwm hab paub ntshai Yawmsaub hab ua koom rua nwg hab noog nwg tej lug, hab tsw xob faav xeeb rua Yawmsaub tej lug nkaw, hab yog mej hab tug vaajntxwv kws kaav mej nrug nraim mej tug Vaajtswv Yawmsaub, mas kuj yog qhov zoo. 15Tassws yog mej tsw noog Yawmsaub tej lug hab faav xeeb rua nwg tej lug nkaw, tes nwg txhais teg yuav tawm tsaam mej ib yaam le tawm tsaam mej tej laug. 16Yog le nuav nwgnuav mej ca le sawv tuabywv tog saib tej xwm txheej luj kws Yawmsaub yuav ua taab meeg mej. 17Nwgnuav yog lub caij hlais mog los tsw yog? Kuv yuav thov Yawmsaub ua xub quaj hab tso naag lug, mas mej yuav paub hab pum tseeb tas mej txujkev limham kws mej ua rua ntawm Yawmsaub xubndag luj kawg, yog qhov kws mej thov kuas muaj ib tug vaajntxwv kaav mej.” 18Xamuyee txawm thov Yawmsaub mas Yawmsaub txawm ua xub quaj hab lug naag rua nub ntawd. Cov pejxeem kuj ntshai Yawmsaub hab Xamuyee heev kawg.
19Mas cov pejxeem suavdawg has rua Xamuyee tas, “Thov koj thov Yawmsaub kws yog koj tug Vaajtswv rua peb kws yog koj cov tub qhe sub peb txhad tsw tuag, tsua qhov peb muab txujkev phem nuav tsaav rua peb lub txem huvsw, vem peb tau thov kuas muaj vaajntxwv kaav peb.” 20Mas Xamuyee has rua cov pejxeem tas, “Tsw xob ntshai. Mej tau ua tej kev phem nuav huvsw lawm tag, tassws mej tsw xob tso qhov kws nrug nraim Yawmsaub tseg, mej ca le ua koom rua Yawmsaub kawg sab kawg ntsws. 21Tsw xob moog lawv kua tej kws tsw muaj qaabhau. Tej hov paab tsw tau mej hab cawm tsw tau mej, vem tej hov tsw muaj qaabhau hlo le. 22Tsua qhov Yawmsaub saib rua nwg lub npe kws luj kawg nwg txhad tsw muab nwg haiv tuabneeg tso pov tseg, vem Yawmsaub txaus sab coj mej lug ua ib haiv tuabneeg kws yog nwg teej nwg tug. 23Tsw taag le ntawd xwb, kuv tug kheej los thov kuas kuv tsw xob ua txhum rua Yawmsaub tsua qhov kws tseg tsw thov nwg paab mej. Hab kuv yuav qha mej taug txujkev kws zoo hab txujkev kws raug cai. 24Mej yuav tsum fwm hab paub ntshai Yawmsaub xwb hab muab lub sab xwb ua koom rua nwg kawg sab kawg ntsws. Ca le ua tuab zoo xaav txug tej num luj kws nwg ua paab mej lawm. 25Yog mej tseed moog ua limham, mej yuav raug muab kuav pov tseg puam tsuaj taag, tsw has mej hab mej tug vaajntxwv huvsw.”

12

Diễn Từ Giã Biệt của Sa-mu-ên

1Bấy giờ Sa-mu-ên nói với toàn dân I-sơ-ra-ên: “Nầy, tôi đã nghe lời anh chị em về mọi điều anh chị em đã nói với tôi. Tôi đã lập một vua để trị vì trên anh chị em. 2Bây giờ, đây là vị vua lãnh đạo anh chị em; còn tôi giờ đây đã già và tóc đã bạc. Nầy, các con trai tôi đang ở giữa anh chị em. Tôi đã bước đi trước mặt anh chị em từ khi còn niên thiếu đến ngày nay. 3Bây giờ tôi đứng đây, xin anh chị em hãy nói ra trước mặt CHÚA và trước mặt người được xức dầu của Ngài, để xem tôi có lấy bò của ai, hoặc lấy lừa của ai, hoặc lừa gạt người nào để lấy gì của ai chăng? Tôi có áp bức ai, hoặc có nhận của hối lộ của ai mà nhắm mắt làm ngơ chăng? Nếu có, tôi xin bồi hoàn cho anh chị em.”
4Họ đáp, “Cụ không lừa gạt chúng tôi, không áp bức chúng tôi, và cũng không lấy gì từ tay ai cả.”
5Ông nói với họ, “Hôm nay, xin CHÚA làm chứng cho tôi trước mặt anh chị em và xin người được xức dầu của Ngài làm chứng cho tôi rằng anh chị em đã không tìm thấy điều gì bất chính trong tay tôi.”
 Họ đáp, “Cầu xin Ngài làm chứng cho.”
6Bấy giờ Sa-mu-ên nói với dân chúng, “CHÚA là Ðấng đã dấy lên Mô-sê và A-rôn, rồi đem các tổ tiên của anh chị em lên từ xứ Ai-cập. 7Vậy, bây giờ anh chị em hãy đứng ra đây, để tôi trình bày với anh chị em trước mặt CHÚA về mọi ơn phước mà CHÚA đã làm cho anh chị em và cho tổ tiên anh chị em.
8Khi Gia-cốp đã vào trong đất Ai-cập và tổ tiên của anh chị em đã kêu cầu với CHÚA, CHÚA đã sai Mô-sê và A-rôn dẫn đưa tổ tiên của anh chị em ra khỏi Ai-cập và giúp họ đến định cư tại miền đất nầy. 9Nhưng họ đã quên CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ, nên Ngài đã phó họ vào tay của Si-sê-ra tổng tư lệnh quân đội của Thành Ha-xơ, vào tay của dân Phi-li-tin, và vào tay vua của Mô-áp. Những người ấy đã đánh bại họ. 10Bấy giờ họ mới kêu cầu lên CHÚA và nói, ‘Chúng con đã phạm tội, vì chúng con đã bỏ CHÚA mà phụng thờ Thần Ba-anh và Nữ Thần Át-tạt-tê, nhưng bây giờ xin cứu chúng con khỏi tay quân thù của chúng con; chúng con nguyện sẽ phụng thờ Ngài.’ 11CHÚA đã sai Giê-ru-ba-anh, Ba-rác, Giép-thê, và Sa-mu-ên đến. Ngài đã giải cứu anh chị em ra khỏi tay quân thù chung quanh anh chị em, và anh chị em đã hưởng cuộc sống an ninh. 12Ðến khi anh chị em thấy Na-hách vua dân Am-môn đến tấn công anh chị em, anh chị em đã yêu cầu tôi, ‘Không, phải lập một vua để trị vì trên chúng tôi’ trong khi CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đang làm Vua của anh chị em. 13Vậy bây giờ, đây là vua của anh chị em, người anh chị em đã chọn, người anh chị em mong muốn. Nầy, CHÚA đã đặt một người làm vua để trị vì trên anh chị em. 14Nếu anh chị em kính sợ CHÚA, phụng thờ Ngài, vâng theo tiếng Ngài, và không chống lại mạng lịnh của CHÚA, và nếu cả anh chị em lẫn vua của anh chị em, tức người trị vì trên anh chị em, vẫn tiếp tục tin theo CHÚA, Ðức Chúa Trời của anh chị em, thì mọi người sẽ được phước. 15Còn nếu anh chị em không vâng theo tiếng CHÚA, nhưng chống lại mạng lịnh của CHÚA, thì tay CHÚA sẽ chống lại anh chị em, như Ngài đã chống lại tổ tiên của anh chị em. 16Vậy bây giờ, anh chị em hãy đứng đó và nhìn xem công việc lớn lao mà CHÚA sẽ làm trước mắt anh chị em. 17Hôm nay là mùa gặt lúa mì phải không? Tôi sẽ kêu cầu CHÚA và Ngài sẽ ban sấm sét và đổ mưa xuống, để anh chị em nhận biết và thấy rằng tội lỗi của anh chị em rất trầm trọng trước mặt CHÚA về việc yêu cầu một vua cho mình.”
18Thế là Sa-mu-ên kêu cầu CHÚA; CHÚA ban sấm sét và đổ mưa xuống trong ngày hôm đó. Mọi người đều rất đỗi kính sợ CHÚA và Sa-mu-ên. 19Toàn dân nói với Sa-mu-ên, “Xin cụ cầu nguyện với CHÚA, Ðức Chúa Trời của cụ, cho các tôi tớ của cụ, để chúng tôi khỏi phải chết, vì chúng tôi đã chồng chất thêm vào những tội lỗi của chúng tôi một việc xấu nữa, ấy là yêu cầu có một vua cho mình.”
20Sa-mu-ên đáp với dân, “Ðừng sợ. Anh chị em quả đã làm mọi việc xấu xa ấy. Dù vậy, xin anh chị em đừng xây bỏ mà không theo CHÚA nữa, nhưng hãy phụng thờ CHÚA cách hết lòng. 21Ðừng xây bỏ CHÚA mà theo các thần tượng hư không, là những thứ chẳng ích lợi gì và cũng không cứu được ai, bởi vì chúng chỉ là hư không. 22CHÚA sẽ không quên dân Ngài vì cớ danh lớn của Ngài, và vì CHÚA đã lấy làm vui mà lập anh chị em làm dân Ngài. 23Ngoài ra, về phần tôi, tôi không muốn phạm tội với CHÚA mà ngưng cầu nguyện cho anh chị em, và tôi sẽ tiếp tục chỉ dạy anh chị em đường ngay nẻo chính. 24Chỉ mong anh chị em hãy kính sợ CHÚA, hãy hết lòng trung tín phụng thờ Ngài, và hãy nghĩ đến những việc lớn lao Ngài đã làm cho anh chị em. 25Nhưng nếu anh chị em cứ làm những việc tội lỗi, thì anh chị em và vua của anh chị em chắc chắn sẽ bị diệt vong.”