6

Pă Boh Êdeh Aseh

1Kâo lŏ kngưr ală leh anăn dlăng, nĕ anei mâo pă boh êdeh aseh kbiă mơ̆ng plah wah dua boh čư̆, čư̆ anăn jing čư̆ kông. 2 Ti êdeh tal sa mâo aseh hrah, ti êdeh tal dua mâo aseh jŭ, 3 ti êdeh tal tlâo mâo lu aseh kô̆, leh anăn ti êdeh tal pă mâo lu aseh brung uê. 4Leh anăn kâo êmuh dĭng buăl jăk pô blŭ hŏng kâo. “Si tô hmô phung anei, Ơ khua kâo?” 5 Dĭng buăl jăk lŏ wĭt lač kơ kâo, “Phung anei jing pă čô mngăt myang hlăm adiê kbiă nao mơ̆ng anôk diñu dôk dơ̆ng ti anăp Yêhôwa kơ jih lăn ala. 6Êdeh mâo aseh jŭ nao phă čar dưr, aseh kô̆ nao phă čar yŭ, leh anăn aseh brung uê nao phă čar dhŭng.” 7Tơdah aseh ktang kbiă diñu kriăng čiăng nao čuă dlăng lăn ala. Ñu lač, “Nao bĕ, čuă dlăng lăn ala.” Snăn diñu čuă dlăng lăn ala. 8Leh anăn ñu ur kơ kâo, “Nĕ anei, phung nao phă čar dưr brei Mngăt Myang kâo dôk mdei hlăm čar dưr.”

Klei Mđua Đuôn Mtao kơ Y-Yôsuê Jing Klei Bi Hriêng

9Yêhôwa blŭ kơ kâo: 10“Mă prăk leh anăn mah mơ̆ng phung mnă Y-Hêldai, Y-Tôbia, leh anăn Y-Jêdaya, phung truh leh mơ̆ng ƀuôn Ƀaƀilôn; leh anăn hruê anăn mơh nao bĕ kơ sang Y-Jôsia anak êkei Y-Sôphôni. 11Mă prăk leh anăn mah mơ̆ng diñu, ngă sa boh đuôn mtao, leh anăn bi mđua gơ̆ ti boh kŏ khua ngă yang prŏng Y-Yôsuê anak êkei Y-Jêhôsadak. 12 Lač bĕ kơ ñu, Snei Yêhôwa kơ phung kahan lač, ‘Nĕ anei êkei mâo anăn Kƀiêng, kyuadah ñu srăng hriê kơ prŏng msĕ si sa ƀĕ adhan hlăm anôk ñu, leh anăn ñu srăng mdơ̆ng sang yang Yêhôwa. 13Ñu yơh srăng mdơ̆ng sang yang Yêhôwa, ñu srăng mâo klei arăng mpŭ, leh anăn srăng dôk gŭ leh anăn kiă kriê ti dlông jhưng mtao ñu. Snăn ñu srăng jing khua ngă yang ti jhưng mtao ñu; leh anăn srăng mâo klei bi mguôp êđăp ênang hdơ̆ng dua mta bruă anăn.’ 14Đuôn mtao srăng dôk hlăm sang Yêhôwa jing sa mnơ̆ng bi hdơr kơ Y-Hêldai, Y-Tôbia, Y-Jêdaya, leh anăn Y-Hen anak êkei Y-Sôphôni. 15Phung dôk kbưi srăng hriê leh anăn đru bruă mdơ̆ng sang yang Yêhôwa; leh anăn diih srăng thâo Yêhôwa kơ phung kahan tiŏ hriê leh kâo kơ diih. Klei anăn srăng truh tơdah diih srăng hur har gưt asăp Yêhôwa Aê Diê diih.”

6

1Tôi nhìn lên, thấy có bốn cỗ xe từ giữa hai ngọn núi đi ra. Các núi ấy bằng đồng. 2Xe thứ nhất có những ngựa hồng kéo, xe thứ hai ngựa đen, 3xe thứ ba ngựa trắng, xe thứ tư ngựa đốm xám. 4Tôi hỏi thiên sứ: "Xin Ngài cho biết ý nghĩa?" 5Thiên sứ đáp: "Đấy là bốn thần linh trên trời. Họ là những vị đứng hầu trước mặt Chúa của toàn thế gian, và nay được sai đi. 6Cỗ xe do ngựa đen kéo đi về phương bắc, cỗ xe ngựa trắng kéo đi về hướng tây. Xe ngựa đốm xám kéo đi về phương nam." 7Khi kéo ra, đoàn ngựa nôn nóng chỉ muốn phóng đi ngay. Chúa bảo: "Đi đi! Tuần tra địa cầu!" Đoàn ngựa cất vó phóng đi, qua lại khắp nơi. 8Chúa gọi tôi, bảo: "Các xe đi về phương bắc làm cho Thần linh Ta ở đấy rồi."
9Chúa Hằng Hữu bảo tôi: 10,11“Hieejn-đai, Tô-bi-gia và Giê-đa-gia những người đi đày từ Ba-by-luân về sẽ đem vàng bạc đến dâng. Ngay hôm ấy, sau khi nhận lễ vật, ngươi phải đến nhà Giô-si-a (con Xê-pha-nia), dùng vàng bạc làm thành mũ miện, đem đội lên đầu thầy tế lễ thượng phẩm Giô-sua (con Giô-xa-đác), 12và nói với người như sau: Chúa Hằng Hữu phán: 'Một người tên là Chồi Nhánh mọc ra từ chỗ mình, sẽ cất Đền thờ Chúa Hằng Hữu. 13Người sẽ được tôn trọng, ngồi cai trị trên ngai, đồng thời làm Vua và thầy tế lễ. Sự hòa hợp giữa hai chức vị sẽ là tuyệt hảo.'
14Mũ miện sẽ được giữ lại trong Đền thờ Chúa Hằng Hữu để kỷ niệm Hiên-đai, Tô-bi-gia, Giê-đa-gia và Giô-si-a (con Xê-pha-nia)."
15Những người từ xa sẽ đến lo giúp việc xây cất Đền thờ Chúa Hằng Hữu, và các ngươi sẽ biết chính Chúa Hằng Hữu sai ta truyền sứ điệp này. Nếu các ngươi cẩn trọng tuân hành mệnh lệnh Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, những điều này sẽ được ứng nghiệm.