1

Khul Hlô Mơnơ̆ng Hơdip Laih Anŭn Tơlơi Ang Yang Yahweh

1Amăng thŭn tal klâopluh, blan tal pă̱ ƀơi hrơi tal rơma, tơdang kâo hlak dŏ hrŏm hăng ƀing hlŭn mơnă jĕ krong Kêbar, tal adai rơngit pŏk laih anŭn kâo ƀuh khul tơlơi pơƀuh Ơi Adai.
2Ƀơi hrơi tal rơma amăng blan anŭn, anŭn jing amăng thŭn tal rơma pơtao Yehôyakhin jing mơnă dŏ ataih mơ̆ng lŏn čar pô yơh, 3hơmâo boh hiăp Yahweh pơhiăp hăng khua ngă yang Yehezekêl, jing ană đah rơkơi Buzi, tơdang ñu dŏ jĕ ƀơi krong Kêbar amăng anih lŏn ƀing Babilon. Hơmâo tơngan dưi mơyang Khua Yang dŏ hrŏm hăng ñu pơ anih anŭn.
4Kâo lăng laih anŭn kâo ƀuh angĭn rơbŭ rai mơ̆ng akiăng gah dư̱r, jing kơthul prŏng hrŏm hăng kơmlă laih anŭn wang dar hăng tơlơi bơngač rơđah biă mă. Ƀơi tŏng krah apui anŭn jing kar hăng gơnam pơsơi pơčrang tơbiă yơh, 5laih anŭn amăng apui anŭn hơmâo kar hăng khul hlô hơdip. Kâo ƀuh rup gơñu kar hăng rup mơnuih, 6samơ̆ rĭm hlô anŭn hơmâo pă̱ ƀô̆ mơta laih anŭn pă̱ ƀĕ čăng. 7Khul tơkai gơñu jing tơpă. Plă̱ tơkai gơñu jing kar hăng čôp khul rơmô laih anŭn pơčrang kar hăng ko̱ng bơngač yơh. 8Gah yŭ kơ khul čăng gơñu ƀơi pă̱ bơnăh gơñu, ƀing gơñu hơmâo khul tơngan mơnuih. Abih pă̱ ƀing gơñu hơmâo ƀô̆ mơta laih anŭn čăng, 9laih anŭn khul čăng gơñu tĕk djơ̆ hăng tơdruă yơh. Rĭm čô rơbat tơpă nao pơanăp. Ƀing gơñu ƀu wĕh ôh tơdang ƀing gơñu rơbat nao.
10Khul ƀô̆ mơta gơñu jing kar hăng anai: Rĭm čô hơmâo ƀô̆ mơta kar hăng ƀô̆ mơta mơnuih laih anŭn ƀơi bơnăh gah hơnuă ƀô̆ rĭm čô hơmâo kar hăng ƀô̆ rơmung dŭl, laih anŭn ƀơi bơnăh gah ieo ƀô̆ jing kar hăng ƀô̆ rơmô yơh. Laih anŭn rĭm čô hơmâo ƀô̆ kar hăng ƀô̆ čim si̱ng yơh. 11Kar hăng anŭn yơh jing ƀô̆ mơta gơñu. Khul čăng gơñu blang ayư đĭ. Rĭm čô hơmâo dua ƀĕ čăng, sa ƀĕ čăng pô anai tĕk djơ̆ čăng pô gah adih laih anŭn dua ƀĕ čăng pơkŏn go̱m hĭ drơi jan gơñu. 12Rĭm čô rơbat nao pơ anăp. Pơpă jua bơngăt či nao, ƀing gơñu či nao pơ anŭn yơh, ƀu wĕh gah pă ôh tơdang ƀing gơñu rơbat nao. 13Rup khul hlô hơdip anŭn jing kar hăng khul hơdăng jă̱ ƀôdah kar hăng khul apui arôk yơh. Apui anŭn dai nao rai amăng khul hlô anŭn. Apui anŭn bơngač rơđah laih anŭn kơmlă klă̱ tơbiă yơh. 14Hơdôm hlô anŭn đuaĭ nao rai kar hăng khul tơlơi ƀlĭp ƀlăp kơmlă klă̱ yơh.
15Tơdang kâo lăng ƀơi hơdôm hlô hơdip anŭn, kâo ƀuh pong ƀơi lŏn jĕ ƀơi rĭm hlô anŭn, anŭn jing sa boh pong kơ rĭm boh amăng pă̱ boh ƀô̆ mơta gơñu yơh. 16Anai yơh jing rup laih anŭn hơdră pơdap khul pong rơdêh: Gơñu bơngač kar hăng pơtâo yom laih anŭn abih bang pă̱ boh pong anŭn le̱ng kơ hrup. Rĭm pong arăng pơkra jing kar hăng sa boh pong anai pơkăl hăng pong adih yơh. 17Tơdang gơñu đuaĭ nao, gơñu či nao tui hăng pă̱ anăp hơdôm hlô anŭn anăp nao yơh. Khul pong anŭn ƀu dar ôh tơdang hlô anŭn nao. 18Khul kuăl pong gơñu jing glông hăng huĭ hyưt laih anŭn abih bang pă̱ kuăl anŭn jing bă hăng mơta jum dar anŭn.
19Tơdang hơdôm hlô hơdip anŭn nao, khul pong ƀơi djeo gơñu nao yơh. Tơdang hơdôm hlô anŭn tơgŭ mơ̆ng lŏn, khul pong anŭn ăt tơgŭ mơ̆n. 20Pơpă jua bơngăt či nao, ƀing gơñu či nao yơh laih anŭn khul pong anŭn či tơgŭ hrŏm hăng gơñu mơ̆n, yuakơ jua bơngăt hơdôm hlô hơdip anŭn jing dŏ amăng khul pong anŭn yơh. 21Tơdang hơdôm hlô anŭn nao, gơñu ăt nao mơ̆n. Tơdang hơdôm hlô anŭn dŏ dơnơ̆ng, gơñu ăt dŏ dơnơ̆ng mơ̆n. Laih anŭn tơdang hơdôm hlô anŭn tơgŭ mơ̆ng lŏn, khul pong anŭn ăt tơgŭ hrŏm hăng gơñu mơ̆n, yuakơ jua bơngăt hơdôm hlô hơdip anŭn dŏ amăng khul pong anŭn yơh.
22Blang gah ngŏ kơ khul akŏ hơdôm hlô hơdip anŭn jing kar hăng sa tơlơi blang rơhaih, či čir kar hăng ple̱r laih anŭn kri̱p yi̱p biă mă yơh. 23Tơlơi blang khul čăng gơñu anŭn yač rơhaih anăp nao hăng tơdruă laih anŭn rĭm hlô hơmâo dua ƀĕ čăng go̱m hĭ drơi jan gơñu. 24Tơdang hơdôm hlô anŭn nao, kâo hơmư̆ dơnai khul čăng gơñu, jing kar hăng dơnai khul ia čroh pơgrao, jing kar hăng asăp Pô Dưi Kơtang, jing kar hăng dơnai sa tơpul ling tơhan yơh. Tơdang gơñu dŏ dơnơ̆ng, gơñu pơtrŭn hĭ khul čăng gơñu yơh.
25Giŏng anŭn, hơmâo sa asăp pơhiăp mơ̆ng gah ngŏ hông hang kơ khul akŏ gơñu tơdang ƀing gơñu dŏ dơ̆ng hăng khul čăng gơñu pơglưh trŭn. 26Gah ngŏ anih hông hang kơ khul akŏ gơñu jing kar hăng sa boh grê pơtao hăng pơtâo yom saphir, laih anŭn glông gah ngŏ ƀơi grê pơtao jing hơmâo rup kar hăng sa čô mơnuih yơh. 27Kâo ƀuh laih mơ̆ng rup pơƀuh rai jing mơ̆ng kơiăng ñu truh pơ ngŏ kar hăng gơnam pơsơi bơngač, jing kar hăng bă apui, laih anŭn mơ̆ng kơiăng anŭn pơ yŭ ñu jing kar hăng apui yơh. Laih anŭn tơlơi bơngač rơđah wang dar ñu. 28Kar hăng rup pơƀuh rai mrŏt amăng khul kơthul ƀơi hrơi hơjan yơh, ăt kar kaĭ mơ̆n tơlơi bơngač rơđah biă mă jum dar ñu.
 Anŭn jing rup kar hăng tơlơi ang yang Yahweh yơh. Tơdang kâo ƀuh rup anŭn, kâo akŭp trŭn ƀô̆ kâo laih anŭn kâo hơmư̆ asăp sa čô pơhiăp yơh.

1

Lời tiên tri về dân Y-sơ-ra-ên

(1:1 – 24:27)

Ê-xê-chi-ên thấy khải tượng

1Vào năm thứ ba mươi, ngày mùng năm tháng tư, khi tôi đang ở giữa những người bị lưu đày bên bờ sông Kê-ba, các tầng trời mở ra và tôi thấy những khải tượng của Đức Chúa Trời.
2Ngày mùng năm tháng ấy — năm thứ năm sau khi vua Giê-hô-gia-kin bị lưu đày — 3có lời của Đức Giê-hô-va phán riêng với thầy tế lễ Ê-xê-chi-ên, con trai Bu-xi, trong xứ người Canh-đê, bên bờ sông Kê-ba. Chính tại đó, tay Đức Giê-hô-va đặt trên ông.
4Kìa tôi thấy có một luồng gió bão từ hướng bắc thổi đến, một đám mây lớn bọc lửa tỏa sáng chung quanh, và từ giữa lửa có cái gì rực sáng như đồng chiếu sáng cả bầu trời. 5Từ giữa nó, có cái gì giống như bốn sinh vật, hình dạng như sau: chúng giống hình người, 6nhưng mỗi con có bốn mặt và bốn cánh. 7Chân của chúng thẳng, bàn chân như bàn chân bò con đực chiếu sáng như đồng bóng loáng. 8Dưới cánh của chúng, bốn bên đều có tay người. Bốn con có mặt và có cánh ấy như sau: 9cánh tiếp giáp nhau; khi chúng đi thì không quay lại nhưng mỗi con cứ đi thẳng tới trước. 10Về hình dạng mặt của chúng thì bốn con đều có mặt người; bốn con đều có mặt sư tử ở bên phải; bốn con đều có mặt bò ở bên trái và bốn con đều có mặt chim ưng. 11Đó là mặt của chúng. Còn cánh của chúng thì giương lên cao; mỗi con có hai cánh giáp với nhau và có hai cánh che thân mình. 12Mỗi con đi thẳng tới; thần khiến đi đâu thì đi đó, không quay lại trong khi đi. 13Hình dạng của những sinh vật ấy giống như hình than lửa đang cháy và hình ngọn đuốc, di chuyển giữa các sinh vật ấy; lửa cháy sáng và có tia chớp từ lửa phát ra. 14Các sinh vật ấy chạy qua chạy lại giống như hình tia chớp.
15Khi tôi nhìn các sinh vật ấy, tôi thấy trên đất có một bánh xe ở bên cạnh các sinh vật ấy, mỗi sinh vật bốn mặt đều có một bánh xe. 16Hình dạng và cấu trúc những bánh xe ấy giống như bích ngọc lấp lánh; tất cả bốn bánh đều giống nhau; hình dạng và cấu trúc như là bánh xe lồng trong bánh xe. 17Khi đi thì chúng đi theo bốn hướng và không quay lại khi đi. 18Các vành bánh xe cao, trông đáng sợ và cả bốn vành bánh xe của các sinh vật đều đầy những mắt. 19Khi các sinh vật đi, thì các bánh xe ấy cũng đi bên cạnh; và khi các sinh vật cất lên khỏi đất, thì các bánh xe cũng cất lên như vậy. 20Thần muốn đi đâu thì các sinh vật đi đó, và các bánh xe cũng cất lên cùng các sinh vật vì thần của các sinh vật đó ở trong các bánh xe. 21Khi các sinh vật đi, thì chúng cũng đi; khi các sinh vật dừng, thì chúng cũng dừng; và khi các sinh vật cất lên khỏi đất, thì các bánh xe cùng cất lên với chúng, vì thần của sinh vật ở trong các bánh xe.
22Trên các đầu của sinh vật có một vòm chiếu sáng như thủy tinh dễ sợ trải ra trên đầu chúng. 23Dưới vòm đó, các cánh của chúng giương thẳng ra, cái nầy tiếp giáp cái kia. Mỗi sinh vật ấy đều có hai cánh che thân thể mình. 24Khi đi tới, tôi nghe tiếng của những cánh chúng như tiếng nước chảy ầm ầm, như tiếng của Đấng Toàn Năng, tiếng ồn ào của một đoàn quân vậy. Khi chúng dừng lại thì cánh rủ xuống. 25Lúc chúng dừng lại và rủ cánh xuống thì từ nơi vòm trên đầu có tiếng vang ra.
26Trên vòm phía trên đầu các sinh vật có cái gì tựa như cái ngai bằng bích ngọc, và trên ngai ấy có cái gì giống như hình người. 27Tôi thấy từ thắt lưng của người ấy trở lên giống như đồng bóng loáng, sáng rực như hình ngọn lửa, và từ thắt lưng của người ấy trở xuống, tôi thấy như hình ngọn lửa sáng rực chung quanh. 28Ánh sáng mà tôi thấy chung quanh đó giống như ánh sáng của cầu vồng trong mây vào ngày mưa. Đó là hình ảnh vinh quang của Đức Giê-hô-va.
 Khi thấy vậy, tôi liền sấp mặt xuống đất và nghe tiếng đang phán với tôi.