13

Nau Y-Abija Chiă Uănh

1Năm rơh jê̆t ma pham hađăch Jêrôbôam, Y-Abija ntơm chiă uănh n'gor Yuda. 2Păng chiă uănh pe năm tâm ƀon Yêrusalem. Amoh me păng H'Mikaja, kon bu ur Y-Uriêl bơh bri Gibêa.
 Geh nau tâm lơh Y-Abija đah Y-Jêrôbôam.
3Y-Abija dâk hăn tâm lơh ndjôt leo ndrel păng du phung tahan, puăn rsen nuyh phung tahan ngăch prăl; jêh ri Y-Jêrôbôam săch phung tahan dăng katang, geh pham rsen nuyh, jêng phung tahan vay tâm lơh. 4Y-Abija gŭ dâk ta kalơ yôk Sêma-raim jêh ri lah: "Hơi Y-Jêrôbôam jêh ri le rngôch phung Israel iăt hom nau gâp! 5Yorlah tă bơh nau tâm rnglăp đah boh, Yêhôva Brah Ndu Israel hŏ ăn jêh bri Israel ma Y-David jêh ri ăn ma phung kon bu klâu păng n'ho ro, mâu ƀơh khân may gĭt? 6Nđâp lah pô nây kađôi lĕ, Y-Jêrôbôam, kon buklâu Y-Nêbat, oh mon Y-Salômôn, jêng kon buklâu Y-David, du dâk tâm rdâng đah Kôranh Brah păng nơm; 7jêh ri ƀa ƀă phung mhĭk tâm rƀŭn ndrel tĭng păng; khân păng jan lah nsan katang, ŭch tâm lơh đah Y-Rêhôbôam, kon buklâu Y-Salômôn; bi ma Y-Rêhôbôam dôl hôm ndăm, vĭ vĕ ê hŏ janh tâm lơh ôh đah khân păng. 8"Pôri aƀaơ, khân may mĭn phung khân may mra ŭch tâm rdâng đah bri hađăch Yêhôva hŏ ăn jêh ma kon buklâu Y-David, khân may jêng du phung mpôl âk lơn, geh djôt leo du mlâm rup kon ndrôk mah hŏ trah jêh jêng brah ma khân may. 9Phung khân may ƀơh mprơh phung kôranh ƀư brah Yêhôva, jêng kon sau Y-Arôn jêh ri phung Lêvi; jêh ri njêng êng ma khân may nơm jêng kôranh ƀư brah tĭng kơt nau vay phung ƀon lan bri êng ƀư jêh? Mbu nơm văch tât ndjôt leo du mlâm ndrôk nkuăng gay nhhơr ƀư brah, gay jêng du huê kôranh ƀư brah ăn ma phung brah nklă dơm.
10Ƀiălah ma phung hên, Yêhôva ăt jêng Brah Ndu hên jêh ri hên mâu chalơi Păng ôh; phung kôranh ƀư brah jêng kon sau Y-Arôn, pah kan ma Yêhôva da dê, jêh ri phung Lêvi kơl kan khân păng; 11ăp ôi ơm (ôi rŭk) jêh ri mhaơ, khân păng nhhơr mpa nhhơr gŭch jêh ri dak si ƀâu kah ma Yêhôva; khân păng dăp piăng let nhhơr ma Brah Ndu ta kalơ sưng mah kloh, jêh ri mpoh jrêng mray ăn jâng jrêng ang mro ăp măng; yorlah hên djôt prăp nau Yêhôva Brah Ndu hên ntăm jêh, bi khân may lĕ chalơi jêh Păng. 12Aơ, Brah Ndu gŭ ndrel ma hên, jêng kôranh ma hên, jêh ri phung kôranh ƀư brah Păng djôt nŭng tâm lơh gay uh ntrôl nau tâm lơh đah khân may. Ơ phung Israel! Lơi ta tâm lơh ôh đah Yêhôva Brah Ndu phung che khân may, yorlah khân may mâu mra dơi ôh."
13Ƀiălah Y-Jêrôbôam prơh bunuyh hăn ndăch kâp dah pakơi khân păng; pôri tahan Israel gŭ panăp tahan Yuda, bi phung tahan kâp dah gŭ pakơi. 14Tơlah phung Yuda n'gĭl uănh, ri, geh nau tâm lơh mpeh panăp jêh ri pakơi khân păng; ri mơ khân păng nter vơh vơl ma Yêhôva, jêh ri phung kôranh ƀư brah uh nŭng. 15Nôk nây phung tahan Yuda nter troh; tăng bâr phung Yuda nter troh, ta nây ro Yêhôva lơh Y-Jêrôbôam jêh ri le rngôch phung Israel roh tâm lơh tra năp măt Y-Abija jêh ri phung Yuda. 16Phung Israel nchuăt du đah phung Yuda, jêh ri Brah Ndu jao khân păng tâm ti phung Yuda. 17Y-Abija jêh ri phung tahan păng nkhĭt âk ngăn bunuyh, geh prăm rsen tahan ueh uĭn tâm phung Israel khĭt. 18Pôri, nôk nây phung tahan Israel roh yor nau tâm lơh, jêh ri tahan phung Yuda dơi dăng lơn, yorlah khân păng rnơm ma Yêhôva Brah Ndu 19Y-Abija tĭng gôk Y-Jêrôbôam, jêh ri pit in âk rplay ƀon păng, ƀon Bethel nđâp ma ƀon jê-jê̆ păng, jêh ri ƀon Jêsana nđâp ma ƀon jê-jê̆ păng, ƀon Êphron nđâp ma ƀon jê-jê̆ păng. 20Y-Jêrôbôam mâu hôm dơi dăng ôh dôl tâm rnôk Y-Abija; jêh ri Yêhôva lơh păng pôri păng khĭt. 21Ƀiălah Y-Abija jêng dăng lơn mro mrăng. Păng sŏk jê̆t ma puăn nuyh ur, jêh ri geh bar jê̆t ma bar nuyh kon buklâu, jêh ri jê̆t ma prao nuyh kon bu ur. 22Kan ƀa ƀă Y-Abija ƀư, nau păng gŭ ngao, jêh ri mbơh ngơi bu chih da dê jêh tâm ndrom, sămƀŭt kôrah nơm mbơh lor Y-Idô nkoch bri.

13

A-bi-gia, vua Giu-đa, chiến thắng Giê-rô-bô-am, vua Y-sơ-ra-ên

(I Vua 15:1-8)

1Năm thứ mười tám đời trị vì của Giê-rô-bô-am, A-bi-gia lên làm vua Giu-đa. 2Vua cai trị ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Mi-ca-gia, con gái của U-ri-ên ở Ghi-bê-a.
 Lúc bấy giờ, chiến tranh xảy ra giữa A-bi-gia và Giê-rô-bô-am.
3A-bi-gia ra trận với một lực lượng bốn trăm nghìn quân tinh nhuệ, là những chiến sĩ dũng cảm; còn Giê-rô-bô-am đem tám trăm nghìn quân tinh nhuệ, cũng là những chiến sĩ dũng cảm, ra nghênh chiến. 4A-bi-gia đứng trên núi Xê-ma-ra-im trong miền núi Ép-ra-im và nói: “Hỡi Giê-rô-bô-am và toàn thể Y-sơ-ra-ên, hãy nghe! 5Các ngươi không biết rằng, do giao ước bằng muối, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã ban quyền cai trị vương quốc Y-sơ-ra-ên cho Đa-vít và cho con cháu người đến đời đời sao? 6Thế nhưng, Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát là đầy tớ của Sa-lô-môn, con của Đa-vít, đã nổi lên chống lại chủ mình. 7Những tên vô lại, côn đồ đều tụ tập lại theo hắn. Chúng mạnh mẽ chống lại Rô-bô-am, con của Sa-lô-môn, trong khi Rô-bô-am thì trẻ người non dạ, không đủ sức chống lại chúng.
8Vậy bây giờ, các ngươi tưởng rằng với quân đội đông đảo, có bò con vàng mà Giê-rô-bô-am đã đúc làm thần cho các người, thì các người có thể chống lại vương quốc mà Đức Giê-hô-va đã ban cho con cháu Đa-vít sao? 9Chẳng phải các người đã đuổi những thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va, là con cháu A-rôn, và người Lê-vi sao? Các người đã theo phong tục của các dân ngoại mà lập những thầy tế lễ cho mình; bất cứ ai đem đến một con bò tơ đực và bảy con chiên đực để dâng tế lễ thì được làm thầy tế lễ cho thần không phải là thần. 10Nhưng về phần chúng tôi, Giê-hô-va vẫn là Đức Chúa Trời của chúng tôi, chúng tôi không lìa bỏ Ngài. Những thầy tế lễ, là con cháu của A-rôn, đều phụng sự Đức Giê-hô-va, và các người Lê-vi giữ phần việc của họ. 11Mỗi buổi sáng và buổi chiều, họ dâng tế lễ thiêu và xông hương cho Đức Giê-hô-va. Họ cũng sắp bánh cung hiến trên bàn thanh sạch, thắp các đèn trên chân đèn bằng vàng cho cháy sáng vào mỗi buổi chiều tối. Vì chúng tôi vâng giữ mệnh lệnh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, còn các người lại bỏ đi. 12Nầy, Đức Chúa Trời ở cùng và lãnh đạo chúng tôi. Những thầy tế lễ của Ngài cầm kèn thúc quân thổi vang lên chống lại các người. Hỡi con cái Y-sơ-ra-ên! Đừng chiến đấu chống lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các người, vì các người không thắng được đâu!”
13Trong khi đó, Giê-rô-bô-am sai quân mai phục đi vòng phía sau quân Giu-đa. Như thế, quân Y-sơ-ra-ên ở phía trước, còn quân mai phục của họ ở phía sau quân Giu-đa. 14Lúc quân Giu-đa quay lại, kìa, địch quân đã có mặt phía trước và phía sau. Họ liền kêu cầu Đức Giê-hô-va, còn các thầy tế lễ thì thổi kèn. 15Bấy giờ, người Giu-đa hò hét xung trận. Khi người Giu-đa hò hét thì Đức Chúa Trời đánh bại Giê-rô-bô-am và toàn thể Y-sơ-ra-ên trước mặt A-bi-gia và người Giu-đa. 16Quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn quân Giu-đa, và Đức Chúa Trời phó họ vào tay quân Giu-đa. 17A-bi-gia và quân lính của vua đánh bại và làm cho quân Y-sơ-ra-ên tổn thất nặng nề; có năm trăm nghìn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên ngã chết. 18Như vậy, trong trận ấy quân Y-sơ-ra-ên bị hạ nhục, còn quân Giu-đa thắng trận vì họ nhờ cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. 19A-bi-gia truy đuổi Giê-rô-bô-am và chiếm các thành: Bê-tên và các vùng phụ cận, Giê-sa-na và các vùng phụ cận, Ép-rôn và các vùng phụ cận. 20Suốt thời trị vì của A-bi-gia, Giê-rô-bô-am không còn khôi phục thế lực được nữa. Cuối cùng, Giê-rô-bô-am bị Đức Giê-hô-va đánh phạt và chết. 21Còn A-bi-gia được cường thịnh. Vua lấy mười bốn người vợ, sinh được hai mươi hai con trai và mười sáu con gái. 22Các việc khác của A-bi-gia, những đường lối và việc làm của vua đều được chép trong sách bình luận của nhà tiên tri Y-đô.