8

Máh Ranáq Sa-lamôn Khoiq Táq Moâm

1Nheq bar chít cumo puo Sa-lamôn táq Dống Sang Toâr cớp dống án ỡt. 2Moâm ki án ayứng loah máh vil ca puo Hi-ram khoiq chiau yỗn án ndỡm, cớp án ớn máh cũai I-sarel pỡq ỡt tâng máh vil ki. 3Án cheng ĩt cruang Hamat Sô-ba, 4cớp táq viang khâm lứq dŏq kĩaq vil Pal-mi-ra ỡt tâng ntốq aiq. Cớp án ayứng loah máh vil tâng cruang Hamat hỡ; noau dŏq crơng crớu tâng máh vil ki. 5Sa-lamôn atức loah máh vil neq: Bet Hô-rôn Yáng Pỡng, cớp Bet Hô-rôn Yáng Pưn; bar vil nâi khâm lứq, bữn viang, bữn ngoah toong, cớp raláng cláng toong; 6cớp án atức loah vil Balat cớp máh vil ca án dŏq crơng crớu, dếh máh vil án dŏq aséh cớp sễ aséh rachíl. Cớp án táq máh ranáq án chanchớm ễ táq tâng vil Yaru-salem, tâng cruang Lê-banôn, cớp chũop máh cutễq án sốt. 7-8Sa-lamôn ễp máh cũai tễ tỗp Cana-an táq ranáq yỗn án, la máh cũai ca tỗp I-sarel dŏq yỗn bữn tamoong bo alới cheng ĩt cutễq ki. Tỗp nâi la neq: Hêt, Amô-rit, Pê-rasit, Hê-vit, cớp Yê-but. Máh cũai nâi noâng cỡt sũl níc toau dỡi sanua. 9Án tỡ bữn ễp máh cũai I-sarel táq ranáq; ma án yỗn tỗp alới cỡt tahan, cỡt cũai sốt, cỡt cũai dững sễ aséh rachíl, cớp cỡt tahan aséh. 10Máh cũai ayững atĩ puo la bar culám sỡng chít náq cỡt cũai taniap máh cũai táq ranáq.
11Sa-lamôn dững aloŏh lacuoi án, la con puo Ê-yip-tô, tễ Vil Davĩt, cớp án yỗn lacuoi ki ỡt tâng dống án khoiq táq yỗn, cớp án pai neq: “Tỡ bữn o niang ỡt tâng dống puo Davĩt, la puo tỗp I-sarel, yuaq dũ ntốq noau khoiq achúh Hĩp Parnai Parkhán cỡt ntốq miar khong Yiang Sursĩ.”
12Sa-lamôn chiau sang crơng yỗn Yiang Sursĩ tâng prông sang án khoiq táq dŏq yáng moat Dống Sang Toâr. 13Tâng máh tangái khoiq rưoh dŏq, án bốh crơng chiau sang puai phễp rit Môi-se khoiq atỡng. Máh tangái ki la neq: Tangái Rlu, Tangái Táq Rit Casâi Mbỡiq Loŏh; tangái táq rit cha bũi pái trỗ tâng cumo, la Tangái Cha Bễng Mi Ŏ́q Crơng Pluoih, Tangái Susot saro mi, cớp Tangái Chóh Nloâh. 14Án táq puai samoât phễp rit Davĩt, mpoaq án, khoiq táq dŏq, chơ án anoat ranáq yỗn máh cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ táq tâng cu rangái, cớp án ớn tỗp Lê-vi ayông ũat cớp rachuai ranáq tỗp tễng rit sang. Cớp án chóh máh tahan yỗn kĩaq Dống Sang Toâr tâng cu rangái bân máh ngoah toong, táq puai samoât Davĩt, la cũai táq ranáq Yiang Sursĩ, khoiq patâp dŏq. 15Alới táq puai samoât samơi lứq máh santoiq Davĩt khoiq ớn tỗp tễng rit sang cớp tỗp Lê-vi tễ máh ranáq dŏq crơng, cớp máh ranáq canŏ́h hỡ.
16Máh ranáq puo Sa-lamôn táq la cỡt moâm nheq, noap tễ tangái án táq tanang Dống Sang Toâr toau toâq tangái án táq moâm nheq dống sang ki.
17Chơ Sa-lamôn pỡq chu vil Ê-si-ôn Ki-bơ cớp vil E-lat; bar vil nâi ỡt cheq tor dỡq mưt ntrin tuoc Aca-ba tâng cruang Ê-dôm. 18Puo Hi-ram ớn cũai ayững atĩ án asuoi tuoc yỗn sa‑ữi, cớp máh cũai sốt tahan án, dếh cũai khễuq dững tuoc dững asuoi tuoc yỗn puo Sa-lamôn. Nheq tữh tỗp alới dững asuoi tuoc parnơi cớp máh sốt tahan Sa-lamôn, chơ clong chu cruang Ô-phia, dững dếh yễng muoi chít tapoât tân dŏq chiau yỗn Sa-lamôn.

8

Sa-lô-môn kiến thiết các thành phố

1Hai mươi năm sau khi lên ngôi, vua Sa-lô-môn hoàn tất chương trình kiến thiết Đền thờ và cung điện. 2Vua bắt đầu xây lại các thành phố mà Hi-ram, vua Ty-rơ đã tặng và cho định cư một số dân Y-sơ-ra-ên tại đó. 3Sa-lô-môn cũng tiến công và chiếm đóng Ha-mát Sô-ba. 4Vua xây cất thành phố Thạch-mơ trong sa mạc và nhiều thành phố quanh Ha-mát làm trung tâm tiếp tế. 5Vua tăng cường các thành phố Bết-hô-rôn trên và Bết-hô-rôn dưới, xây thành lũy, đặt cổng và khóa để làm trung tâm tiếp tế. 6Vua cũng kiến thiết thành phố Ba-lát, các trung tâm tiếp tế và các thành chứa xe cộ, chiến xa, kỵ binh và hoàn thành các dự án kiến thiết tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Li-ban và khắp đất nước.
7Vua Sa-lô-môn bắt các sắc dân Hê-tít, A-mo. Phê-rê, Hê-vít và Giê-bu 8tức là dòng dõi những kẻ còn sống sót sau cuộc chiếm đóng của dân Y-sơ-ra-ên làm sưu dịch (các đời sau cũng áp dụng chính sách này). 9Công dân Y-sơ-ra-ên không ai phải làm xâu, nhưng được nhập ngũ phục vụ trong quân đội với các cấp bậc tướng tá, chỉ huy chiến xa, kỵ binh và binh sĩ. 10Sa-lô-môn cũng bổ nhiệm 250 giám đốc các ngành hành chánh để điều khiển các sinh hoạt của nhân dân.
11Vua rước hoàng hậu (là công chúa Ai-cập) từ thành Đa-vít lên cung điện mới xây cất xong; vì vua nhận định: 'Hoàng hậu không nên ở trong cung Đa-vít là nơi đã được thánh hóa (vì Rương giao ước trước kia được rước vào cung Đa-vít một thời gian).' 12Lúc ấy, Sa-lô-môn dâng các tế lễ thiêu cho Chúa trên bàn thờ vua đã lập trước hiên cửa Đền thờ. 13Như luật pháp Mai-sen đã ấn định, vua dâng các tế lễ hằng ngày, mỗi ngày lễ cuối tuần, ngày trăng mới và ba ngày lễ lớn hằng năm là lễ Bánh không men, lễ các Tuần lễ và lễ Lều Tạm. 14Theo lệnh Đa-vít, người của Thượng Đế, các thầy tế lễ được phân công và chia thành từng ban. Người Lê-vi cũng được phân công ca ngợi Chúa và phục vụ trong Đền thờ giúp các thầy tế lễ trong các nhiệm vụ hằng ngày, cùng canh gác các cổng Đền thờ. 15Họ nhất nhất tuân hành lệnh vua trong các sinh hoạt Đền thờ, kho tàng và mọi việc khác. 16Mọi công tác của Sa-lô-môn, từ ngày khởi công cho đến ngày hoàn thành, đều được chuẩn bị chu đáo, nên Đền thờ Chúa được hoàn tất cách tuyệt hảo.
17Sa-lô-môn cũng xuống Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lát, hai hải cảng trong đất Ê-đôm. 18Hi-ram (vua Ty-rơ) sai các chuyên viên hàng hải và các thủy thủ đến hợp tác với các hải đội của Sa-lô-môn đi Ô-phia lấy vàng. Họ lấy được 450 ta-lâng vàng chở về cho Sa-lô-môn.