3

Jiez Gorn Ceix Ziec-Dorngh Hnangv Loz Wuov Nor

1Taux cietv hlaax, I^saa^laa^en Mienh, gorqv-mienh yiem njiec gorqv-mienh nyei buonv-mungv mi'aqv. Ninh mbuo yietc zungv daaih gapv zunv yiem Ye^lu^saa^lem Zingh. 2Yo^saa^ndakc nyei dorn, Ye^su^aa, caux juangc zoux sai mienh nyei mienh, caux Se^an^ti^en nyei dorn, Se^lupv^mbaa^mben, caux ninh nyei muoz-doic cien-ceqv jiez gorn ceix I^saa^laa^en Mienh nyei Tin-Hungh nyei ziec-dorngh, weic bun ninh mbuo dorh ga'naaiv daaih buov ziec ziux fiev jienv Tin-Hungh nyei mienh, Mose, nyei Leiz-Latc Sou. 3Maiv gunv ninh mbuo gamh nziex weih gormx nyei buonv-deic mienh, ninh mbuo yiem loz-gorn-ndoqv ceix ziec-dorngh yaac ndorm-ndorm muonz-muonz dorh ga'naaiv mingh buov ziec bun Ziouv. 4Ziux fiev jienv leiz-latc, ninh mbuo yaac jiex ⟨Mbiorv Liuh nyei Zipv.⟩ Ei jienv leiz nyei soux mouc ninh mbuo hnoi-hnoi dorh ga'naaiv mingh buov ziec. 5Nqa'haav ninh mbuo aengx dorh zanc-zanc buov ziec nyei ga'naaiv caux bieqc Siang-Hlaax ziec nyei, caux ziux norm-norm zipv ziec nyei, aengx caux gorqv-mienh cuotv fim ziec bun Ziouv nyei ga'naaiv. 6Cietv hlaax saeng-yietv, mienh jiez gorn dorh ga'naaiv mingh ziec bun Ziouv, maiv gunv ninh mbuo maiv gaengh liepc zaangc Ziouv nyei biauv nyei gorn-ndoqv.

Jiez Gorn Ceix Zaangc Tin-Hungh Nyei Biauv

7I^saa^laa^en Mienh zorqv nyaanh bun la'bieiv-zaangc caux ndiangx-zaangc. Aengx zorqv nyanc hopv caux ga'lanv youh bun Sai^ndorn Mienh caux Tailaqv Mienh weic zorqv Le^mbaa^norn Mbong nyei si^ndaa zongh ndiangx wuonc njiec taux koiv, aengx wuonc gan koiv njiec taux Yapv^faa, ziux Besie Guoqv nyei hungh, Sailatv, nqoi nzuih bun ninh mbuo zoux.
8Nzuonx Ye^lu^saa^lem Zingh, zaangc Tin-Hungh nyei biauv, da'nyeic hnyangx nyeic hlaax, Se^an^ti^en nyei dorn, Se^lupv^mbaa^mben, caux Yo^saa^ndakc nyei dorn, Ye^su^aa, caux ninh mbuo nyei muoz-doic cien-ceqv, se dongh sai mienh caux Lewi Mienh, caux yietc zungv zuqc guaatv mingh aengx nzuonx daaih nyei I^saa^laa^en Mienh, jiez gorn zoux gong. Ninh mbuo paaiv hnyangx-jeiv nyic ziepc hnyangx faaux maengx nyei Lewi Mienh zoux ceix zaangc Ziouv nyei biauv nyei gunv gong mienh. 9Ye^su^aa caux ninh nyei dorn mbuo caux ninh nyei cien-ceqv, caux Katc^mi^en caux ninh nyei dorn mbuo (se Ho^ndaa^wi^yaa nyei zeiv-fun) caux He^naa^ndatc nyei bungh buonc dorn-jueiv fun-faqv caux muoz-doic, se naaiv deix Lewi Mienh tengx jienv gunv ceix zaangc Tin-Hungh nyei biauv nyei gong-mienh.
10Zaangc mienh liepc Ziouv nyei biauv nyei gorn-ndoqv wuov zanc, zuangx sai mienh zuqv jienv zoux sai nyei lui-houx, nanv jienv nzatc cuotv daaih. Lewi Mienh, ⟨Aasaapc⟩ nyei zeiv-fun, nanv jienv caauh zeiv. Ninh mbuo lomh nzoih ceng Ziouv ziux zinh ndaangc I^saa^laa^en Mienh nyei hungh, Ndaawitv, dingc daaih nyei yietc nyeic. 11Ninh mbuo baaux nzung ceng yaac laengz zingh Ziouv gorngv,
  “Ziouv za'gengh longx haic.
   Ninh yietc liuz hnamv I^saa^laa^en Mienh
    taux maanc gouv maanc doic.”
Zuangx mienh lomh nzoih heuc qiex mbui nyei ceng Ziouv weic zuqc zaangc Ziouv nyei biauv nyei gorn-ndoqv liepc jiez daaih aqv.
12Mv baac maaih hnyangx-jeiv gox nyei sai mienh camv nyei, caux Lewi Mienh, caux bungh buonc nyei bieiv zeiv, dongh buatc jiex loz wuov norm zaangc Tin-Hungh nyei biauv nyei mienh, buatc ih zanc liepc naaiv norm nyei siang-gorn-ndoqv ziouc nyiemv duqv mbui haic. Aengx maaih mienh camv! nyei njien-youh nyei heuc. 13Yiem wuov nyei zuangx mienh maiv maaih haaix dauh haih samx duqv cuotv wuov deix qiex mbui, haaix nyungc se njien-youh nyei qiex haaix nyungc se nyiemv nyei qiex, weic zuqc zuangx mienh za'gengh! mbui haic. Yiem go nyei mienh yaac muangx duqv haiz.

3

Lập Lại Sự Thờ Phượng

1Đến tháng bảy, sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã định cư trong thành mình, toàn dân họp lại như một người tại Giê-ru-sa-lem. 2Bấy giờ, Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, cùng với các thầy tế lễ khác, và Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, cùng anh em ông, khởi sự xây cất bàn thờ cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên để dâng tế lễ thiêu trên ấy, theo như đã chép trong Kinh Luật Môi-se, người của Đức Chúa Trời. 3Họ dựng bàn thờ trên vị trí cũ, vì họ sợ dân trong vùng, và họ dâng tế lễ thiêu cho CHÚA trên bàn thờ ấy, dâng tế lễ thiêu buổi sáng và buổi chiều. 4Họ cử hành lễ lều tạm, y như đã chép, và mỗi ngày, dâng tế lễ thiêu theo số quy định cho ngày ấy; 5kế đến, họ dâng tế lễ thiêu thường lệ, tế lễ thiêu ngày trăng non, tế lễ thiêu trong tất cả những dịp lễ thánh của Đức Chúa Trời, và tế lễ thiêu của mỗi người tự nguyện dâng hiến cho Đức Chúa Trời. 6Họ khởi sự dâng tế lễ thiêu cho Đức Chúa Trời từ ngày mồng một tháng bảy, mặc dù lúc ấy nền đền thờ Đức Chúa Trời chưa đặt.

Lễ Cung Hiến Nhân Dịp Đặt Nền Đền Thờ

7Vậy họ trao bạc cho thợ đẽo đá và thợ thủ công, và cung cấp thức ăn, thức uống và dầu cho dân Si-đôn và dân Ty-rơ để cho gỗ bách hương từ Li-ban về cảng Gióp-bê bằng đường biển, theo chiếu chỉ Si-ru vua Ba-tư cấp cho họ.
8Năm thứ hai sau khi họ về đến đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, vào tháng hai, Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, cùng với hết thảy anh em còn lại, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và tất cả những người phu tù trở về Giê-ru-sa-lem khởi sự xây cất. Họ lập người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên giám sát công việc xây cất đền thờ CHÚA. 9Giê-sua, các con trai và anh em ông, với Cát-mi-ên, Bin-nui, con trai Hê-na-đát, cùng con cháu và anh em họ, người Lê-vi, họp lại như một người giám sát những người làm công tác xây cất đền thờ Đức Chúa Trời.
10Khi thợ xây cất đặt nền đền thờ Đức Chúa Trời, những thầy tế lễ mặc lễ phục đứng thổi kèn, và những người Lê-vi, con cháu A-sáp, đánh chập chỏa, tôn vinh CHÚA, theo nghi thức Đa-vít vua Y-sơ-ra-ên quy định. 11Họ hát đối đáp, tôn vinh và cảm tạ Đức Chúa Trời:
  “Thật Chúa thiện mỹ,
   Tình yêu Ngài đối với Y-sơ-ra-ên bền vững muôn đời.”
 Rồi toàn dân reo lớn tiếng tôn vinh Đức Chúa Trời vì đền thờ Đức Chúa Trời đã đặt xong nền.
12Nhưng có nhiều thầy tế lễ, người Lê-vi, và trưởng tộc, những bậc lão thành đã từng thấy đền thờ trước kia trên nền cũ, đó chính thật là đền thờ theo mắt họ, khóc lớn tiếng, trong khi nhiều người khác reo lớn tiếng vui mừng, 13cho nên người ta không thể phân biệt tiếng reo vui với tiếng khóc, vì dân sự kêu lớn tiếng, từ xa vẫn nghe được.