3

Klei Lŏ Mkŏ Mjing Klei Kkuh Mpŭ

1Tơdah truh leh mlan tal kjuh, leh anăn phung anak êkei Israel dôk hlăm ƀuôn, jih jang phung ƀuôn sang bi kƀĭn sa ai hlăm ƀuôn Yêrusalem. 2 Y-Jêsua anak êkei Y-Jôsadak mbĭt hŏng phung găp ñu phung khua ngă yang, leh anăn Y-Sôrôbabel anak êkei Y-Sêaltiêl mbĭt hŏng phung găp djuê ñu kgŭ mdơ̆ng knưl Aê Diê phung Israel, čiăng myơr mnơ̆ng myơr čuh ti dlông knưl anăn, tui si klei čih leh hlăm klei bhiăn Y-Môis, mnuih Aê Diê. 3 Diñu mdơ̆ng knưl ti anôk hđăp, wăt tơdah diñu huĭ kơ phung ƀuôn sang hlăm čar, diñu ăt myơr mnơ̆ng myơr čuh ti dlông knưl anăn kơ Yêhôwa aguah leh anăn tlam. 4 Diñu hdơr ngă hruê knăm Sang Trưng tui si klei čih leh, leh anăn myơr grăp hruê mnơ̆ng myơr čuh tui si ênoh mtă leh, tui si klei djŏ kơ grăp hruê. 5 Êdei kơ anăn diñu myơr mnơ̆ng myơr čuh nanao, mnơ̆ng myơr ti mlan mrâo ƀlĕ, leh anăn ti jih jang klei huă mnăm kơ Yêhôwa bi kčah leh, leh anăn mnơ̆ng grăp čô myơr hŏng ai tiê čŏng čiăng kơ Yêhôwa. 6Mơ̆ng hruê tal sa mlan tal kjuh diñu dơ̆ng myơr mnơ̆ng myơr čuh kơ Yêhôwa. Ƀiădah atur sang yang Yêhôwa ăt ka arăng mdơ̆ng ôh.

Klei Kčưm Lŏ Mdơ̆ng Sang Yang

7Snăn diñu brei prăk kơ phung mdơ̆ng boh tâo leh anăn kơ phung krah kmeh, mnơ̆ng ƀơ̆ng huă, mnơ̆ng mnăm, leh anăn êa boh ôliwơ kơ phung Sidôn leh anăn kơ phung Tir brei digơ̆ ba kyâo sêdar mơ̆ng čar Liƀan hŏng êlan êa ksĭ truh ti ƀuôn Jôpa, tui si klei dưi diñu mâo leh mơ̆ng Y-Sirus mtao Persơ.
8Hlăm thŭn tal dua dơ̆ng mơ̆ng diñu truh leh kơ sang Aê Diê ti ƀuôn Yêrusalem, hlăm mlan dua, Y-Sôrôbabel anak êkei Y-Sêaltiêl leh anăn Y-Jêsua anak êkei Y-Jôsadak dơ̆ng mă bruă mbĭt hŏng jih jang phung ayŏng adei diñu phung khua ngă yang leh anăn phung Lêwi, leh anăn jih jang phung truh leh kơ ƀuôn Yêrusalem mơ̆ng klei jing mnă. Diñu mdưm phung Lêwi mơ̆ng dua pluh thŭn kơ dlông brei diñu kiă kriê bruă sang yang Yêhôwa. 9Y-Jêsua mbĭt hŏng phung anak êkei ñu leh anăn phung găp djuê ñu, leh anăn Y-Katmiêl leh anăn phung anak êkei gơ̆ phung anak êkei Yuđa, mđrăm mbĭt kiă kriê phung mă bruă hlăm sang yang Aê Diê, mbĭt hŏng phung anak êkei Y-Hênadat jing phung Lêwi, phung anak êkei diñu leh anăn phung găp djuê diñu.
10 Tơdah phung mdơ̆ng dưm leh atur sang yang Yêhôwa, phung khua ngă yang hơô čhiăm ao diñu êbat ti anăp ayŭ ki êjai, leh anăn phung Lêwi phung anak êkei Y-Asap djă đang čiăng mpŭ mni kơ Yêhôwa, tui si klei Y-Đawit mtao Israel mtă. 11 Diñu mmuñ bi kmlah, hơêč hmưi leh anăn bi mni kơ Yêhôwa,
  “Kyuadah ñu jing jăk,
   kyuadah klei ñu khăp sĭt suôr dôk nanao hlŏng lar kơ phung Israel.”
 Leh anăn jih jang phung ƀuôn sang ur driâo kraih ktang êjai diñu mpŭ mni kơ Yêhôwa, kyuadah arăng mdơ̆ng leh atur sang yang Yêhôwa.
12Ƀiădah lu hlăm phung khua ngă yang, phung Lêwi, leh anăn phung khua djuê ana, phung mduôn tuôm ƀuh leh sang êlâo, hia hŏng asăp kraih tơdah diñu ƀuh arăng mdơ̆ng atur sang anei, ƀiădah lu mnuih ur driâo kraih hŏng klei hơ̆k. 13Snăn phung ƀuôn sang amâo dưi thâo kral ôh asăp klei hơ̆k hŏng asăp klei hia, kyuadah phung ƀuôn sang ur driâo kraih ktang snăk, leh anăn arăng hmư̆ asăp anăn truh ti anôk kbưi.

3

Lập lại sự thờ phượng

1Đến tháng bảy, khi dân Y-sơ-ra-ên đã định cư trong các thành của họ rồi, thì dân chúng họp lại như một người tại Giê-ru-sa-lem. 2Bấy giờ, Giê-sua, con trai của Giô-xa-đác, và anh em của ông là các thầy tế lễ khác, cùng với Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, và bà con thân thuộc của ông đều trỗi dậy xây cất bàn thờ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên để dâng tế lễ thiêu trên đó, như đã chép trong luật pháp của Môi-se, là người của Đức Chúa Trời. 3Họ sợ các dân trong xứ nên lập bàn thờ trên nền cũ và dâng trên đó tế lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, tức là tế lễ thiêu buổi sáng và buổi chiều. 4Họ cũng giữ lễ Lều Tạm, như đã chép, và dâng những tế lễ thiêu ngày nầy qua ngày kia, theo số đã định cho mỗi ngày. 5Sau đó, họ dâng những tế lễ thiêu hằng hiến, luôn với những tế lễ vào ngày trăng non và vào tất cả các ngày lễ trọng thể biệt ra thánh cho Đức Giê-hô-va, cũng như dâng các tế lễ tự nguyện của mỗi người cho Đức Giê-hô-va. 6Từ ngày mồng một tháng bảy, họ bắt đầu dâng những tế lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va mặc dù chưa xây nền đền thờ của Đức Giê-hô-va. 7Họ cấp tiền bạc cho thợ nề, thợ mộc, cấp thức ăn, thức uống và dầu cho dân Si-đôn và Ty-rơ, để họ đem gỗ bá hương từ Li-ban đến biển Gia-phô, theo chiếu chỉ của Si-ru, vua Ba Tư.
8Tháng hai năm thứ hai sau khi đến nhà của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, thì Xô-rô-ba-bên, con trai của Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con của Giô-xa-đác, cùng với các anh em khác của họ, là những thầy tế lễ, người Lê-vi, và tất cả những người bị lưu đày đã trở về Giê-ru-sa-lem, khởi công xây cất đền thờ. Họ chỉ định người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên, trông coi việc xây cất đền thờ của Đức Giê-hô-va. 9Bấy giờ, Giê-sua với các con trai và anh em của ông, Cát-mi-ên với các con trai ông, con cháu Hô-đa-via và con cháu Hê-na-đát, là người Lê-vi, với con trai và anh em của họ, cùng nhau giám sát những người làm việc trong nhà của Đức Chúa Trời.
10Khi các thợ xây nền của đền Đức Giê-hô-va, các thầy tế lễ mặc áo lễ và cầm kèn, còn những người Lê-vi, con cháu A-sáp, thì cầm chập chõa đứng đó ca ngợi Đức Giê-hô-va theo như Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, đã quy định. 11Họ ca hát đối đáp nhau mà tôn vinh và cảm tạ Đức Giê-hô-va rằng:
  “Ngài thật tốt lành,
  Lòng thương xót của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên còn đến đời đời!”
Rồi toàn dân đồng thanh hô lớn, ca ngợi Đức Giê-hô-va, vì nền của đền thờ Đức Giê-hô-va được xây dựng.
12Nhiều thầy tế lễ, người Lê-vi, trưởng tộc, tức là những người già cả đã thấy đền thờ trước kia, khóc lớn tiếng khi thấy nền của đền thờ mới được xây dựng, trong khi nhiều người khác lại reo hò vì vui mừng. 13Người ta khó phân biệt tiếng vui mừng với tiếng khóc lóc, vì dân chúng lớn tiếng reo hò và tiếng ấy vang vọng khắp nơi.