14

Yô-ap Chuaq Ngê Yỗn Ap-salôm Píh Chu Loah

1Yô-ap con niang Sê-ruya dáng puo Davĩt sanhữ lứq Ap-salôm. 2Ngkíq án ớn noau pỡq coâiq muoi noaq mansễm rangoaiq tễ vil Tacua. Tữ mansễm ki toâq, Yô-ap atỡng án neq: “Mới táq nan tanúh, sớp tampâc tanúh, cớp chỗi saráh sóc, táq samoât cũai tanúh khoiq dũn chơ. 3Moâm ki, cóq mới pỡq ramóh puo cớp pai santoiq riang cứq ễ atỡng mới.”
 Chơ Yô-ap atỡng máh santoiq án ễq mansễm ki pai.
4Mansễm ki pỡq ramóh puo Davĩt; án pũp cucốh yám noap cớp pai neq: “Puo hếq ơi! Sễq anhia chuai hếq nứng!”
5Puo Davĩt blớh án: “Mới bữn ŏ́c ntrớu?”
 Án ta‑ỡi neq: “Hếq la cán cumai cadĩt lứq; cayac hếq khoiq cuchĩt chơ.
6Achuaih ơi! Hếq bữn bar lám con samiang. Ma bữn muoi tangái, bar lám con nâi ralỗih pỡ sarái, mŏ ŏ́q cũai caryoah alới. Án ca a‑ễm toân cachĩt ai án. 7Sanua, máh sễm ai hếq chíl níc hếq, cớp alới yỗn hếq chiau con hếq ca noâng tamoong yỗn alới. Tỗp alới ễ cachĩt án dŏq carláh dỡq yỗn ai án ca khoiq cuchĩt. Khân alới táq ngkíq, hếq ŏ́q con loâng. Alới ễ pupứt ŏ́c hếq ngcuang, cớp alới tỡ yỗn hếq bữn con tŏ́ng dŏq pláih loah mpoaq án.”
8Puo ta‑ỡi: “Pỡq, mới chu! Cứq toâp ễ chuai mới tễ ranáq nâi.”
9Ma mansễm tễ vil Tacua pai neq: “Puo ơi! Khân anhia táq ngkíq, hếq cớp dống sũ hếq roap bữm tễ ŏ́c lôih ki. Ma anhia cớp dống sũ anhia, ki tỡ bữn lôih ntrớu.”
10Puo ta‑ỡi: “Khân bữn cũai canứh mới, ki yỗn mới dững án toâq ramóh cứq. Chơ án tỡ bữn táq túh noâng mới.”
11Mansễm ki pai ễn neq: “Puo hếq ơi! Sễq anhia câu sễq tễ Yiang Sursĩ, Ncháu anhia, dŏq chuai hếq! Chỗi yỗn sễm ai hếq ca nhêng salĩq tễ ranáq carláh dỡq bữn cachĩt con samiang hếq ca noâng tamoong.”
 Puo Davĩt ta‑ỡi: “Cứq sễq parkhán nhơ ramứh Yiang Sursĩ ca tamoong mantái níc, lứq samoât muoi ntreh sóc tâng plỡ con samiang mới la tỡ bữn pứt mŏ!”
12Chơ mansễm ki pai ễn: “Puo hếq ơi! Hếq sễq pai tữm muoi ŏ́c ễn.”
 Puo ta‑ỡi: “Âu, mới pai!”
13Chơ mansễm ki pai neq: “Nŏ́q anhia táq ranáq tỡ pĩeiq chóq cũai proai Yiang Sursĩ? Anhia toâp catáng tỡ yỗn con samiang anhia ca khoiq lúh la píh chu loah. Ngkíq santoiq anhia khoiq pai tếq loah tỗ anhia bữm. 14Dũ náq cũai la cóq cuchĩt. Lứq samoât, nheq tữh hái cỡt samoât dỡq pardáih tâng cloong cutễq, tỡ bữn noau têq parỗm ĩt loah dỡq ki. Yiang Sursĩ tỡ bữn pupứt dỡi tamoong cũai, ma án yỗn án ca noau táh bữn píh chu loah. 15Ma sanua, puo ơi! Hếq pai máh santoiq ngkíq adớh, yuaq bữn cũai canứh ễ táq hếq. Chơ hếq chanchớm neq: Khân hếq atỡng anhia, cŏh lơ têq anhia rachuai hếq. 16Cŏh lơ anhia tamứng cớp chuai hếq yỗn vớt tễ cũai chuaq ngê ễ cachĩt hếq cớp con hếq, yỗn hếq pứt tễ cutễq Yiang Sursĩ chiau yỗn proai án. 17Achuaih ơi! Hếq dáng ống anhia toâp têq aliam hếq, yuaq puo la ariang ranễng Yiang Sursĩ, têq cayoah ranáq o cớp ranáq lôih. Sễq Yiang Sursĩ, la Ncháu anhia, ỡt níc cớp anhia!”
18Chơ puo Davĩt ta‑ỡi án: “Cứq yoc ễ blớh mới muoi ramứh; cóq mới atỡng ŏ́c lứq.”
 Mansễm ki ta‑ỡi: “Puo hếq ơi! Sễq mơi anhia blớh.”
19Davĩt blớh án: “Yô-ap ớn mới táq ranáq nâi, pĩeiq tỡ?”
 Án ta‑ỡi puo Davĩt: “Puo ơi! Hếq sễq thễ dũan samoât samơi lứq, hếq tỡ têq viaq tễ santoiq anhia blớh. Pĩeiq, Yô-ap án ca taniap máh tahan anhia ớn hếq táq, cớp án ớn hếq pai.
20Yô-ap táq dũ ramứh la ễq ranáq nâi cỡt o. Puo hếq ơi! Anhia la cũai rangoaiq ariang ranễng Yiang Sursĩ. Lứq samoât, anhia dáng nheq máh ranáq khoiq cỡt tâng cruang nâi.”
21Vớt ki, puo Davĩt pai chóq Yô-ap neq: “Cứq ễ táq ariang mới yoc. Pỡq, mới pỡq coâiq Ap-salôm con samiang póng ki, yỗn án píh chu loah.”
22Yô-ap pũp asễng yám noap choâng moat Davĩt, cớp pai neq: “Puo ơi! Sễq Yiang Sursĩ satốh ŏ́c bốn yỗn anhia. Sanua, hếq dáng raloaih la anhia bũi pahỡm cớp hếq, yuaq anhia ta‑ỡi ariang hếq sễq.”
23Chơ, Yô-ap yuor tayứng cớp loŏh pỡq chu vil Kê-sur, pỡq coâiq Ap-salôm yỗn chu loah pỡ vil Yaru-salem. 24Ma Davĩt patâp tỡ yỗn Ap-salôm pỡq chu dống toâr án ỡt, cớp án pai neq: “Cứq tỡ ễq hữm án.”
 Yuaq ngkíq, Ap-salôm ỡt níc tâng dống án bữm, cớp án tỡ bữn yỗn puo hữm án.

Ap-salôm Ra‑o Loah Cớp Puo Davĩt

25Nheq tữh cũai tễ tỗp I-sarel tỡ bữn noau thán riang o ariang Ap-salôm; án ŏ́q dếh bân ễ tếq, noap tễ plỡ toau toâq ayững. 26Sóc án pũ lứq; muoi cumo muoi chữ án cứt. Toâq án cứt sóc, án cân ntâng clữi bar ki-lô puai canân puo. 27Ap-salôm bữn con samiang pái náq, con mansễm muoi noaq, ramứh niang Tamar. Niang Tamar roâp riang lampéng o lứq.
28Ap-salôm ỡt tâng vil Yaru-salem bar cumo, ma án tỡ bữn hữm roâp puo Davĩt. 29Chơ án ớn cũai pỡq coâiq Yô-ap, cỗ án ễ ớn Yô-ap pỡq ramóh puo; ma Yô-ap tỡ bữn toâq. Chơ án ớn cũai pỡq coâiq sĩa Yô-ap; ma Yô-ap tỡ bữn toâq sĩa. 30Ngkíq yuaq Ap-salôm pai chóq máh cũai táq ranáq án neq: “Anhia nhêng chu tíh! Sarái Yô-ap cheq lứq cớp sarái cứq. Saro bali la cốc tháng. Pỡq, anhia pỡq chŏ́ng tarŏ́h táh chíq saro bali án.”
 Chơ máh cũai táq ranáq án pỡq chŏ́ng nheq saro bali ki.
31Yô-ap pỡq toâp chu dống Ap-salôm cớp blớh neq: “Nŏ́q máh cũai táq ranáq mới chŏ́ng nheq saro bali cứq?”
32Ap-salôm ta‑ỡi: “Cỗ tian mới tỡ bữn toâq bo cứq ớn cũai pỡq coâiq mới. Cứq ễq mới pỡq ramóh puo Davĩt, cớp blớh án chuai cứq neq: ‘Cứq dễq tễ vil Kê-sur, chơ toâq ỡt loah pỡ ntốq nâi táq ntrớu? Khân cứq ỡt pỡ ki, la o hỡn tễ ỡt ntốq nâi!’ Sanua cứq yoc mới chuaq rana yỗn cứq bữn mut ramóh puo. Khân cứq táq lôih, yỗn án toâp cachĩt cứq.”
33Ngkíq, Yô-ap pỡq ramóh puo Davĩt, cớp atỡng puo máh santoiq Ap-salôm khoiq pai. Moâm ki puo Davĩt ớn cũai pỡq coâiq Ap-salôm toâq ramóh án. Chơ Ap-salôm toâq, cớp pũp cucốh yám noap puo; puo Davĩt roap chỗm, kĩau, cớp hũn hĩt án hỡ.

14

Áp-sa-lôm Trở Về Giê-ru-sa-lem

1Bấy giờ Giô-áp con trai bà Xê-ru-gia nhận biết rằng vua đang quan tâm đến Áp-sa-lôm. 2Giô-áp sai người đến Tê-cô-a, mời một người đàn bà khéo nói đến, và dặn bà, “Xin bà làm ơn giả làm một người đang thọ tang. Bà hãy mặc bộ đồ tang vào, và đừng xức dầu gì cả, nhưng hãy làm như người đã để tang than khóc cho người thân của mình lâu ngày. 3Sau đó bà hãy xin vào chầu vua, và hãy nói với vua như thế nầy..” Vậy Giô-áp đặt lời vào miệng bà.
4Khi người đàn bà ở Tê-cô-a đó được vào gặp vua, bà sấp mặt xuống đất, phủ phục trước mặt vua, và nói, “Tâu vua, xin ngài giúp đỡ tôi.”
5Vua hỏi bà, “Ngươi có chuyện gì?”
 Bà đáp, “Tâu vua, than ôi, tôi là một người góa bụa. Chồng tôi đã chết.
6Nữ tỳ của ngài có hai đứa con trai. Chúng nó đánh lộn với nhau ngoài đồng, lúc đó không có ai ở đó để can ngăn chúng, đứa nầy đánh đứa kia và đã lỡ tay giết chết anh nó. 7Bây giờ, cả họ hàng nổi lên chống lại nữ tỳ của ngài. Họ đòi, ‘Hãy nộp kẻ giết anh hắn cho chúng tôi, để chúng tôi giết nó, bắt nó phải đền mạng anh nó, dù chúng tôi phải diệt luôn cả người thừa kế của gia đình bà.’ Vậy họ muốn diệt luôn miếng than hồng còn lại, không cho chồng tôi được lưu danh hay có người nối dõi trên đất.”
8Vua nói với người đàn bà, “Thôi bà hãy về nhà đi. Ta sẽ ban lịnh về việc nầy của bà.”
9Người đàn bà ở Tê-cô-a lại nói với nhà vua, “Ôi vua, chúa thượng của tôi, xin tội nầy đổ lại trên tôi và trên nhà cha tôi, còn đức vua và ngai vàng của ngài hoàn toàn vô can.”
10Vua nói, “Nếu kẻ nào nói gì với ngươi, hãy đem kẻ ấy đến gặp ta; nó sẽ không dám đụng đến ngươi đâu.”
11Bà bèn nói, “Xin đức vua lấy danh CHÚA, Ðức Chúa Trời của ngài, mà thề và không cho phép kẻ đòi nợ máu gây thêm chết chóc, kẻo họ sẽ giết chết con trai tôi.”
 Vua nói, “Có CHÚA hằng sống chứng giám, không một sợi tóc nào của con trai ngươi sẽ rơi xuống đất.”
12Bấy giờ người đàn bà lại nói, “Xin cho nữ tỳ của ngài nói thêm vài lời nầy nữa với đức vua, chúa thượng của nữ tỳ của ngài.”
 Vua bảo, “Hãy nói đi.”
13Người đàn bà nói, “Tại sao ngài lại dự tính làm một việc có hại cho dân của Ðức Chúa Trời như vậy? Ðức vua phán quyết về việc của tôi như thế thì đức vua cũng đã tự kết án mình rồi, khi đức vua không cho phép đứa con bị trục xuất của ngài trở về nhà. 14Rồi đây chắc chắn mỗi chúng ta sẽ qua đời, giống như nước đổ xuống đất, không thể nào hốt lại được. Ðức Chúa Trời không cất mạng sống của ai, nhưng Ngài có kế hoạch để những kẻ bị Ngài trục xuất không bị xa cách Ngài mãi mãi. 15Bây giờ tôi đã đến đây thưa với đức vua, chúa thượng của tôi, việc nầy của tôi, vì người ta đã làm cho tôi lo sợ. Số là nữ tỳ của ngài tự nhủ, ‘Mình phải đến tâu với đức vua, biết đâu đức vua sẽ đáp ứng nguyện vọng của mình, 16biết đâu đức vua sẽ nghe và sẽ cứu nữ tỳ của người khỏi tay những kẻ muốn hại mình và con trai mình trong việc hưởng cơ nghiệp của Ðức Chúa Trời.’ 17Nữ tỳ của ngài lại thầm nghĩ, ‘Lời phán quyết của đức vua chắc chắn sẽ làm cho mình yên lòng, vì đức vua, chúa thượng của mình, chẳng khác gì thiên sứ của Ðức Chúa Trời, phân biệt thiện ác rõ ràng, đâu ra đó.’ Cầu xin CHÚA, Ðức Chúa Trời của ngài, ở với ngài.”
18Bấy giờ vua trả lời và nói với bà ấy, “Ðừng giấu ta điều gì ta sắp hỏi ngươi.”
 Bà ấy đáp, “Xin đức vua, chúa thượng của tôi, cứ hỏi.”
19Vua hỏi, “Có phải bàn tay của Giô-áp đã sắp đặt với ngươi mọi việc nầy không?”
 Người đàn bà trả lời và nói, “Tâu đức vua, chúa thượng của tôi, tôi xin chỉ mạng sống của ngài mà xác nhận, không ai có thể làm chệch qua bên phải hoặc bên trái một chút nào về điều mà đức vua, chúa thượng của tôi, vừa mới nói. Thật vậy, Giô-áp đầy tớ ngài đã truyền cho tôi và đặt những lời nầy trong miệng nữ tỳ của ngài.
20Chính vì muốn thấy tình huống được thay đổi mà Giô-áp đầy tớ ngài đã làm điều ấy; nhưng chúa thượng của tôi thật khôn ngoan, khôn ngoan như thiên sứ của Ðức Chúa Trời, biết hết mọi sự trên đất.”
21Bấy giờ vua bảo Giô-áp, “Thôi được rồi. Ta chấp thuận việc nầy. Vậy ngươi hãy đi, đem thằng Áp-sa-lôm về.”
22Giô-áp liền sấp mặt xuống đất, lạy vua, và cảm tạ vua. Giô-áp nói, “Tâu vua, hôm nay tôi nhận biết tôi đã được ơn trước mặt vua, chúa thượng của tôi, vì vua đã chấp thuận điều tôi tớ của ngài thỉnh cầu.”
23Sau đó Giô-áp đứng dậy, đi đến Ghê-sua, và đem Áp-sa-lôm trở về Giê-ru-sa-lem.
24Vua phán, “Hãy cho nó về nhà nó, nhưng đừng để nó thấy mặt ta.” Vậy Áp-sa-lôm trở về và ở trong nhà của chàng, nhưng chàng không được diện kiến nhà vua.

Ða-vít Tha Thứ Áp-sa-lôm

25Thuở ấy, trong cả nước I-sơ-ra-ên không ai được khen là tuấn tú bằng Áp-sa-lôm. Từ bàn chân cho đến đỉnh đầu của ông không có một khuyết điểm nào. 26Khi ông hớt tóc –cứ cuối năm ông hớt tóc một lần, vì tóc ông mọc dài và trở nên nặng nề– ông thường lấy tóc đã hớt đem cân và người ta cân được hơn hai ký, theo cân của hoàng gia. 27Áp-sa-lôm có ba con trai và một con gái; con gái ông tên là Ta-ma. Nàng là một thiếu nữ xinh đẹp.
28Áp-sa-lôm sống tại Giê-ru-sa-lem được hai năm nhưng không được diện kiến nhà vua. 29Vì vậy, Áp-sa-lôm sai người đến nói với Giô-áp, nhờ ông ấy tiến dẫn, hầu ông được diện kiến nhà vua, nhưng Giô-áp không đến. Áp-sa-lôm lại sai người đến lần thứ hai, nhưng ông ấy cũng không đến. 30Vậy ông nói với các đầy tớ ông, “Kìa, đám ruộng của Giô-áp ở gần đám ruộng của ta. Ruộng của ông ấy đang trổ lúa mạch. Các ngươi hãy ra và nổi lửa đốt đám ruộng của ông ấy cho ta.” Các đầy tớ của Áp-sa-lôm bèn ra và nổi lửa đốt cháy đám ruộng của Giô-áp.
31Bấy giờ Giô-áp liền đứng dậy, đi đến nhà Áp-sa-lôm, và hỏi, “Tại sao các đầy tớ của ông đốt lúa trong ruộng tôi?”
32Áp-sa-lôm đáp, “Nầy, tôi đã sai các đầy tớ tôi đến mời ông, ‘Xin ông đến đây để tôi có thể nhờ ông thưa với vua rằng, “Tại sao cha cho con từ Ghê-sua về đây làm chi? Thà cứ để con ở đó còn hơn.”’ Vậy bây giờ, xin ông làm ơn giúp đỡ tôi được gặp mặt vua, nếu tôi có lỗi gì, xin vua cứ giết tôi đi.”
33Vậy Giô-áp đến gặp vua và tâu với vua điều ấy. Vua cho triệu Áp-sa-lôm vào. Ông vào triều kiến nhà vua. Ông sấp mình xuống đất phủ phục trước mặt vua. Vua ôm lấy ông và hôn.