2

Y-Salômôn Tâm Rnglăp Đah Hađăch Huram

1Pôri, Y-Salômôn mĭn ŭch ndâk du mlâm ngih ma Amoh Yêhôva, jêh ri du mlâm ngih ma hađăch nơm. 2Y-Salômôn săch pơh rmưn nuyh buklâu prãp dŭ nchuăn ndơ jâk jêh ri pham rmưn nuyh châm rlah lŭ ta bri kalơ dor lâng jêh ri pe rbăn prao rhiăng nuyh njêh blau kan.
3Y-Salômôn njuăl bâr ngơi ma Haram hađăch ƀon Tyr lah: "Nâm bu may hŏ ƀư jêh ma Y-David, mbơ̆ gâp, jêh ri njuăl jêh ma păng tơm si sêdar ŭch ndâk ma păng nơm du mlâm ngih gŭ, tâm ban pô nây lĕ sâm ƀư ăn ma gâp đŏng. 4Ta aơ gâp ntơm ndâk du mlâm ngih prăp ma Amoh Yêhôva Brah Ndu gâp, prăp ăn jêng kloh nhhơr, ma Păng, gay su ndơ ƀâu kah panăp Păng, phiơ piăng leh kloh ƀa ƀơ, nhhơr mpa nhhơr gŭch kêng ôi jêh ri kêng mhaơ, mâu lah tâm nar saƀat, jêh ri ta nar ntơm luh khay, mâu lah ăp tơ̆ nar nhêt ƀŭn tâm nal năng đah Yêhôva phung hên; ntil nau nây jêng du nau ntăm jêh ma phung Israel ƀaƀă n'ho ro.
5Yorlah Brah Ndu ta kalơ dŭt prêh jêng toyh lơn ma le rngôch brah; pôri gâp mĭn ŭch ndâk ngih brah toyh ma nau lơp rmah. 6Lah pônây mbu nâm dơi ndâk ngih ma Păng; yorlah trôk, nđâp ma trôk jêng kalơ lơn mâu hôm dơi hẽ djôt prăp Păng? Mbu nâm gâp jêng, dĭng dơi ndâk du mlâm ngih brah ăn Păng? Kanŏng ndâk nâm bu du ntŭk prăp gŭch mpa ƀâu kah ta năp Păng rĭ dơm.
7Pôri aƀaơ, prơh hăn hom ăn ma gâp du huê bu klâu blau dơi pah kan tŏ njêng mah, prăk, kông, loih, blau tanh ma brai chăng, brai sut jêh ri rnô̆, blau nđâp cheh chiăk brai gay pah kan ndrel ma phung njêh phung blau gŭ êp kêng gâp tâm n'gor Yuda jêh ri tâm ƀon Yêrusalem, jêng ndơ Y-David, mƀơ̆ gâp, hŏ ndrăp rơm jêh. 8Ăt njuăl đŏng ăn ma gâp tơm si Sêdar, tơm si Chipprơ tơm rte bơh bri Liban, yorlah gâp gĭt ma phung oh mon may blau kăl tơm si tâm bri Liban. Phung oh mon gâp mra gŭ ndrel ma phung oh mon may, 9gay nkra tơm si ăn âk râk ngăn ma gâp, yorlah ngih gâp ŭch ndâk păng jêng toyh ngăn jêh ri lơp rmah mha ngăn ngên. 10Gâp mra ăn ma phung oh mon may phung kăl si bar rmưn kôr ba răch lĕ peh jêh, bar rmưn kôr ba ôrgơ, bar rmưn ƀat dak-play-kriăk-ƀâu jêh ri bar rmưn dak play ôlivơ."
11Pôri, Y-Huram hađăch ƀon Tyr, nchih sămƀŭt plơng ma Y-Salômôn, lah: "Yorlah Yêhôva rŏng ma phung ƀon lah he ri dĭng Păng njêng jêh may hađăch chiă uănh khân păng." 12Y-Hiram plơ̆ lah đŏng: "Mŏt ton ma Yêhôva Brah Ndu Israel, jêng Nơm rhăk trôk jêh ri neh ntu, yorlah Păng hŏ ăn jêh ma hađăch David du huê kon buklâu geh nau blau mĭn jêh ri gĭt rbăng, gay ndâk ngih brah ma Păng jêh ri du mlâm ngih hađăch ma păng nơm.
13"Aƀaơ ri gâp prơh hăn jêh du huê buklâu njêh blau geh nau blau mĭn Y-Huramabi, 14kon buklâu du huê bu ur tâm ndŭl mpôl Dan, mbơ̆ păng jêng du huê buklâu ƀon Tyr. Păng blau ngăn tâm kan tŏ njêng mah, prăk, kông, loih, lŭ blau tanh cheh brai chăng, rnô̆, jêh ri brai sut, breh brai nhao, jêh ri brai mhay rhên, blau ăp ntil cheh hak jêh ri kach rup tĭng nâm bu đă. Păng mra pah kan ndrel ma phung njêh may phung njêh phung blau kôranh gâp, Y-David mbơ̆ may.
15Pôri aƀaơ, dăn may njuăl hom ba răch, ba ôrgơ, dak play ôlivơ jêh ri dak play-kriăk-ƀâu may hŏ lah jêh. 16Jêh ri hên mra kăl tơm si tâm bri Liban tĭng nâm may ŭch, jêh ri kât nsum jêng nâm bu rkĭt nđông kalơ dak mƀũt tât ta ƀon Jôpa, pônây mơ may dơi dŭ nchuăn păng tât ta ƀon Yêrusalem."
17Y-Salômôn kơp le rngôch phung bu năch gŭ tâm bri Israel, tĭng nâm Y-David mbơ̆ păng, hŏ kơp jêh; jêh ri rnoh kơp khân păng geh du rsen prăm rmưn pe rbăn prao rhiăng nuyh. 18Tâm phung nây păng jao kan geh pơh rmưn nuyh tung nchuăn ndơ jâk, pham rmưn nuyh châm trah lŭ kalơ yôk, jêh ri pe rbăn prao rhiăng nuyh jêng kôranh chiă uănh ntĭm phung ƀon lan pah kan.

2

Sô-lô-môn chuẩn bị cất đền thờ
và cung điện

1Sô-lô-môn quyết định cất đền thờ để dùng làm nơi thờ phụng CHÚA và cũng cất một cung điện cho mình. 2Ông chọn bảy mươi ngàn người khuân vác, tám mươi ngàn người đục đá trong núi, và ba ngàn sáu trăm đốc công.
3Sô-lô-môn gởi thơ cho Hi-ram vua thành Tia như sau: “Xin vua hãy giúp tôi như đã giúp cha tôi là Đa-vít bằng cách gởi gỗ hương nam cho cha tôi cất cung điện người. 4Tôi sẽ xây một ngôi đền để thờ phụng CHÚA là Thượng Đế tôi, và tôi sẽ dâng đền thờ đó cho Ngài. Rồi chúng tôi sẽ đốt hương trước mặt Ngài. Chúng tôi sẽ luôn luôn bày bánh thánh trước sự hiện diện của Thượng Đế. Chúng tôi sẽ dâng của lễ thiêu mỗi sáng mỗi chiều, vào những ngày Sa bát, ngày Trăng Mới, và những lễ đặc biệt khác mà CHÚA là Thượng Đế chúng tôi truyền dặn. Đó là luật lệ đời đời cho toàn dân Ít-ra-en vâng theo.
5Đền thờ tôi xây sẽ rất lớn vì Thượng Đế chúng tôi lớn hơn tất cả các thần. 6Nhưng thật ra không ai có thể xây nhà cho Thượng Đế chúng tôi. Dù cho các từng trời cao vút cũng không chứa nổi Ngài. Làm sao tôi có thể xây đền thờ cho Ngài? Nơi đó chỉ có thể dùng làm chỗ dâng của lễ thiêu cho Ngài mà thôi.
7Bây giờ xin vua hãy gởi cho tôi một thợ khéo làm vàng, bạc, đồng, và sắt cùng với chỉ tím, đỏ, và xanh. Người đó cũng phải biết chạm trổ nữa. Anh ta sẽ làm việc chung với các thợ khéo của tôi ở Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, những người mà Đa-vít cha tôi đã chọn. 8Ngoài ra xin vua gởi cho tôi gỗ hương nam, gỗ thông, và gỗ bạch đàn từ Li-băng. Tôi biết các tôi tớ vua có kinh nghiệm đốn gỗ ở Li-băng, nên các tôi tớ tôi sẽ giúp họ. 9Xin hãy gởi cho tôi thật nhiều gỗ vì đền thờ mà tôi sắp xây sẽ lớn rộng và nguy nga. 10Tôi sẽ cung cấp cho các tôi tớ vua, những người đốn gỗ, 125.000 hộc lúa mì, 125.000 hộc lúa mạch, 440.000 lít rượu, và 440.000 lít dầu.”
11Hi-ram, vua Tia, viết thư trả lời Sô-lô-môn như sau: “Kính vua Sô-lô-môn, vì CHÚA yêu dân Ngài nên Ngài đã chọn vua làm vua trên họ.” 12Hi-ram cũng viết thêm: “Đáng ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, Đấng tạo nên trời và đất! Ngài ban cho vua Đa-vít một con trai khôn ngoan, một người đầy thông minh và hiểu biết, là người sẽ xây đền thờ cho CHÚA và cung điện cho mình. 13Tôi sẽ gởi đến cho vua một tay thợ khéo và khôn ngoan tên Hu-ram A-bi. 14Mẹ anh gốc dân Đan, cha anh gốc thành Tia. Hu-ram A-bi có tài làm các đồ vàng, bạc, đồng, sắt, đá, và gỗ, cùng với chỉ tím, xanh, đỏ cùng vải đắt tiền. Anh có tài chạm trổ và có thể khắc những kiểu nào vua chỉ. Anh sẽ giúp các thợ khéo của vua cùng thợ của Đa-vít, cha vua.
15Bây giờ xin vua hãy gởi cho các tôi tớ tôi lúa mì, lúa mạch, dầu và rượu như vua hứa. 16Chúng tôi sẽ đốn gỗ thật nhiều từ Li-băng dọc theo biển theo như vua cần rồi thả bè trôi xuống Giốp-ba. Sau đó vua sẽ mang về Giê-ru-sa-lem.”
17Sô-lô-môn kiểm kê tất cả các ngoại kiều đang sống trong xứ Ít-ra-en. Đó là sau khi Đa-vít, cha vua đã kiểm kê toàn thể dân chúng. Trong toàn xứ có tất cả 153.600 ngoại kiều. 18Sô-lô-môn chọn bảy mươi ngàn người trong vòng họ để khuân vác, tám mươi ngàn người để đục đá trong núi, và ba ngàn sáu trăm người làm đốc công.