10

1Dôl Y-Êsra mbơh sơm jêh ri mbơh nau tih, nhĭm chon mon panăp ngih Brah Ndu, pôri geh du phung ƀon lan Israel, phung bu ur jêh ri buklâu âk ngăn, tâm rƀŭn du ntŭk gŭ jŭm păng; tâm ban lĕ khân păng nhĭm rngot da dê. 2Y-Sêkania, kon buklâu Y-Jêhiêl, sau Y-Êlam lah ma Y-Êsra pô aơ: He ƀư tih đah Brah Ndu he jêh ri tâm nsông ur sai đah phung bu năch jêng phung ntil mpôl bunuyh gŭ tâm n'gor. Ƀiălah aƀaơ ăt hôm e nau kâp gân ma phung Israel. Nđâp tơlah nau aơ hŏ tât jêh kađôi lĕ. 3Pôri aƀaơ, he tâm rnglăp hom đah Brah Ndu he, mprơh lơi lĕ rngôch phung bu ur nây jêh ri phung kon sau khân păng hŏ ur sai, bă kon jêh, tĭng nâm nau kôranh gâp nchră, jêh ri khân may geh nuih n'hâm klach yơk tông nau Brah Ndu he ntăm; ăn he ƀư lĕ nau nây tĭng nau vay păng. 4Dâk hom, yorlah kan aơ, jêng kan may, jêh ri hên mra kâp kơl may. Ăn may jêng katang jêh ri ƀư hom nau aơ. 5Pôri, Y-Êsra du dâk, jêh ri ăn phung kôranh ƀư brah toyh, phung Lêvi, jêh ri lĕ rngôch phung Israel sơm ma khân păng mra ƀư tĭng nâm nau hŏ lah jêh. Yor ri khân păng ton sơm ro.
6Tơlah Y-Êsra hŏ dâk jêh, tă bơh panăp ngih Brah Ndu, hăn lăp tâm jrô Y-Jôhôhanan, kon buklâu Y-Êlêasip; păng lăp ta nây mâu sa piăng let jêh ri mâu nhêt dak lĕ, yorlah păng geh nau rngot rvê ngăn yor ma nau tih phung ƀon lan hŏ tă ƀư bună lĕ sĭt jêh, gay ma khân păng dơi tâm rƀŭn ta ƀon Yêrusalem. 8Tơlah du huê mâu văch ôh, tâm pe nar tĭng nâm nau phung kôranh, phung bu bŭnh bu ranh ntăm; nơm nây mra roh lĕ ndô ndơ păng, jêh ri păng nơm bu buay tâm rƀŭn ndrel ma phung bună mhe plơ̆ sĭt.
9Tâm pe nar, phung Yuda jêh ri phung Benjamin tâm rƀŭn tay ta ƀon Yêrusalem tâm nar bar jê̆t, khay sĭn; lĕ rngôch phung ƀon lan gŭ ta ntŭk nkual toyh panăp ngih Brah Ndu, nsâr klach ma nau nây jêh ri yor mih ntâng toyh. 10Pônây, Y-Êsra, kôranh ƀư brah, dâk jêh ri lah: Khân may hŏ ƀư tih jêh, gŭ ur sai đah phung bu năch, n'hao nau tih lơ hâu âk ma phung Israel. 11Ƀiălah aƀaơ ri, mbơh hom nau tih khân may ma Yêhôva Brah Ndu chô che khân may, jêh ri ƀư tĭng nau păng ŭch: tâm rnglah hom khân may nơm bơh phung mpôl bunuyh gŭ tâm n'gor jêh ri bơh ur kon phung bu năch.
12Lĕ rngôch phung gŭ tâm rƀŭn plơ̆ lah ma bâr ngơi huy: Di ngăn, nau may hŏ lah, hên ƀư ro tĭng nâm nau may lah jêh. 13Ƀiălah phung ƀon lan âk ngăn, hên mâu dơi ôh gŭ srâng padih; jêh ri tâm yan mih toyh, jêh ri kan aơ mâu lĕ dơi ƀư kanŏng bar pe nar; yorlah tâm ban aơ hŏ ƀư tih âk ngăn. 14Pônây, dăn ma phung kôranh hên dâk hom may ta nây ntang ma lĕ rngôch phung tâm rƀŭn; mbu moh tâm ăp mƀon phung hên hŏ sŏk ur sai đah phung bu năch, văch tât ta nar tâm nal; jêh ri ndrel ma phung bu bŭnh bu ranh jêh ri phung kôranh phat dôih bơh ăp rplay ƀon, gay dăp nkra kan aơ kŏ tât dơi bah nau jih nuih bơh Brah Ndu he
15Kanŏng êng Y-Yônathan, kon buklâu Y-Asahel, jêh ri Y-Jahseya, kon buklâu Y-Tikva, tâm rlăch, rdâng đah nau ntrŭnh aơ; jêh ri Y-Mêsulam ndrel ma Y-Sabêthai kơl an khân păng.
16Pôri, phung bunuyh hŏ bu veng tă ƀư bună lĕ sĭt jêh hŏ ŭch da dê ƀư tâm ban pônây. Bu săch Y-Êsra, kôranh ƀư brah, jêh ri phung kôranh noi deh, tĭng nâm noi deh khân păng, lĕ rngôch bu kuăl tĭng nâm amoh khân păng. Ta nar năng nguay khay jê̆t, khân păng gŭ sek uănh nau kan aơ. 17Tât nar năng nguay khay nguay, khân păng hŏ sek uănh lĕ jêh ƀhiau đơ phung bunuyh geh sok ur sai đah phung bu năch. 18Tâm noi phung kôranh ƀư brah ăt geh tâm ban lĕ hŏ sŏk ur sai đah phung bu năch tâm kon sau Y-Jêsua, se săn Y-Jôsadak, jêh ri tâm phung oh mâu păng geh Y-Maseya, Y-Êliêser, Y-Jarip jêh ri 19Khân păng ton mprơh lơi ur păng, jêh ri nhhơr du mlâm biăp nkuăng ƀư brah chuai yor nau tih khân păng. 20Tâm kon sau Y-Imer geh Y-Hênani jêh ri Y-Sêbadia. 21Tâm kon sau Y-Harim geh Y-Mêsaya, Y-Êlija, Y-Sêmya, Y-Jêhiêl jêh ri Y-Usia. 22Tâm kon sau Y-Pashur geh Y-Êliô-ênai, Y-Maseya, Y-Ismael, Y-Nêthanel, Y-Hôsabat, jêh ri Y-Êlêsa.
23Tâm phung Lêvi geh Y-Jôsabat, Y-Simei, Y-Kêlaya (trơn amoh Y-Kêlita), Y-Phêthahia, Y-Yuda, jêh ri Y-Êliêser. 24Tâm phung kâp mprơ geh Y-Êliasip. Tâm phung gak njrăng mpông pêr geh geh Y-Salum, Y-Têlem, jêh ri Y-Uri.
25Tâm phung Israel: tâm kon sau Y-Parôs geh Y-Ramia, Y-Isia, Y-Malkija, Y-Mijamin, Y-Êlêasar, Y-Hasabia, jêh ri 26Tâm phung kon buklâu Y-Êlam geh Y-Matania, Y-Sakari, Y-Jêhiêl, Y-Apdi, Y-Jêrêmôt, jêh ri Y-Êlija. 27Tâm phung kon sau Y-Satu geh Y-Êliôpai, Y-Êliasip, Y-Matania, Y-Jêrêmôt, Y-Sabat, Y-Asisia. 28Tâm kon sau Y-Bêbai geh Y-Mêsulam, Y-Mahuk, Y-Adaya, Y-Jashup, Y-sêal jêh ri Y-Jêrêmôt. 30Tâm kon sau Y-Pahat-Môap geh Y-Atna, Y-Kêlal, Y-Bênaya, Y-Maseya Y-Matania, Y-Besalel, Y-Binui, jêh ri 31Tâm phung kon sau Y-Harim geh Y-Êliêser, Y-Ishija, Y-Malkija, Y-Sêmay a, Y-Sêmêôn, 32Y-Benjamin, Y-Maluk, jêh ri 33Tâm kon sau Y-Hasum geh Y-Matênai, Y-Matata, Y-Sabat, Y-Êliphêlet, Y-Jêrêmai, Y-Manasê, jêh ri 34Tâm kon sau Y-Bani geh Y-Maêdai, Y-Amram, Y-Uêl. 35Y-Bênaya, Y-Bêdeya, Y-Kêluhi, 36Y-Vania, Y-Mêrêmôt, 37Y-Matania, Y-Mêtênai, 38Tâm kon sau Y-Binui geh 39Y-Sêlêmia, Y-Nathan, Y-Adaya, 40Y-Maknadêbai, Y-Sasai, Y-Sarai. 41Y-Sarel, Y-Sêlêmia, 42Y-Salum, Y-Amaria, jêh ri 43Tâm kon sau Y-Nêbô geh Y-Jêiêl, Y-Matithia, Y-Sabat, Y-Sêbina, Y-Jadai, Y-Jôel, jêh ri 44Lĕ rngôch phung nây gŭ ur sai bu ur bu năch, jêh ri khân păng chalơi ur hŏ deh kon jêh.

10

Dân chúng ăn năn, xưng tội

1Trong lúc E-xơ-ra cầu nguyện, vừa khóc vừa xưng tội và phủ phục trước đền thờ của Đức Chúa Trời, thì một đoàn dân Y-sơ-ra-ên, gồm cả nam nữ và trẻ em nhóm họp chung quanh ông, cũng khóc nức nở. 2Sê-ca-nia, con trai Giê-hi-ên, cháu của Ê-lam, thưa với E-xơ-ra: “Chúng tôi đã phạm tội với Đức Chúa Trời chúng tôi mà cưới những phụ nữ ngoại đạo thuộc các dân tộc trong xứ. Dù vậy, vẫn còn hi vọng cho Y-sơ-ra-ên. 3Vậy bây giờ, chúng ta hãy lập giao ước với Đức Chúa Trời chúng ta, đuổi tất cả những người vợ nầy và các con cái của họ như lời khuyên bảo của chúa tôi và của những người có lòng kính sợ điều răn của Đức Chúa Trời chúng ta. Chúng ta hãy làm điều ấy theo luật pháp Chúa dạy. 4Xin ông bắt tay vào việc, vì đây là công việc của ông, và chúng tôi sẽ giúp đỡ ông; xin ông can đảm hành động!” 5E-xơ-ra đứng dậy, bảo những thầy tế lễ cả, người Lê-vi, và cả Y-sơ-ra-ên thề rằng họ sẽ làm theo lời ấy. Họ liền thề.
6Khi ra khỏi đền thờ Đức Chúa Trời, E-xơ-ra vào phòng của Giô-ha-nan, con trai Ê-li-a-síp. Ông vào đó không ăn bánh cũng không uống nước, vì ông than khóc về tội bất trung của những người bị lưu đày trở về.
7Người ta loan báo khắp xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, kêu gọi tất cả người bị lưu đày trở về phải nhóm họp tại Giê-ru-sa-lem. 8Trong vòng ba ngày, nếu ai không đến theo lệnh của các viên chức và các trưởng lão thì tài sản người ấy sẽ bị tịch thu, và chính người ấy bị khai trừ khỏi hội chúng của những người lưu đày hồi hương.
9Trong ba ngày, tất cả những người Giu-đa và Bên-gia-min đều nhóm lại tại Giê-ru-sa-lem vào ngày hai mươi tháng chín. Tất cả dân chúng đều ngồi tại quảng trường trước đền thờ Đức Chúa Trời, run sợ về việc ấy và về cơn mưa rất lớn. 10Thầy tế lễ E-xơ-ra đứng dậy, và nói: “Anh em đã phạm tội, cưới vợ ngoại đạo và làm cho Y-sơ-ra-ên tội lỗi chất chồng. 11Vậy bây giờ, hãy xưng tội với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, và làm theo ý muốn Ngài: Hãy tách biệt khỏi các dân tộc trong xứ và khỏi những người vợ ngoại đạo.” 12Cả hội chúng đều đáp lớn tiếng rằng: “Phải, chúng tôi phải làm theo lời ông dạy. 13Nhưng dân chúng rất đông và nhằm vào mùa mưa nên chúng tôi không thể đứng ngoài trời. Hơn nữa, việc nầy không thể giải quyết trong một hai ngày, vì nhiều người trong chúng tôi đã vi phạm điều nầy. 14Vậy, xin để các quan chức chúng tôi đứng ở đó đại diện cho cả hội chúng. Tất cả những người đã cưới vợ ngoại đạo trong tất cả các thành phải đến với các trưởng lão và thẩm phán của thành mình theo thời gian quy định, để giải quyết việc nầy cho đến khi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời chúng tôi nguôi đi.” 15Chỉ có Giô-na-than, con trai của A-sa-ên, và Gia-xi-gia, con trai Tiếc-va, chống đối việc nầy, còn Mê-su-lam và Sáp-bê-tai, người Lê-vi, đều ủng hộ họ.
16Vậy, những người bị lưu đày trở về làm theo điều đã quy định. Người ta chọn E-xơ-ra, thầy tế lễ, và các trưởng tộc tùy theo từng gia tộc mình, và đều được chỉ định đích danh. Ngày mồng một tháng mười, họ ngồi xuống để điều tra từng trường hợp. 17Đến ngày mồng một tháng giêng, họ đã hoàn tất việc điều tra những người đã cưới vợ ngoại đạo.
18Trong số các thầy tế lễ cũng có người đã cưới vợ ngoại đạo. Thuộc dòng dõi Giê-sua, con của Giô-xa-đác, và các anh em ông có Ma-a-xê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia. 19Họ hứa đuổi vợ ngoại đạo và dâng một con chiên đực làm tế lễ chuộc lỗi mình. 20Thuộc dòng dõi Y-mê có Ha-na-ni và Xê-ba-đia. 21Thuộc dòng dõi Ha-rim có Ma-a-xê-gia, Ê-li, Sê-ma-gia, Ghê-hi-ên, và U-xia. 22Thuộc dòng dõi Pha-su-rơ có Ê-li-ô-ê-nai, Ma-a-xê-gia, Ích-ma-ên, Na-tha-na-ên, Giô-xa-bát, và Ê-lê-a-sa.
23Thuộc dòng dõi người Lê-vi có Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-la-gia (cũng gọi là Kê-li-ta), Phê-ta-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe. 24Thuộc dòng dõi các ca sĩ có Ê-li-a-síp; thuộc dòng dõi những người gác cổng có Sa-lum, Tê-lem, và U-ri.
25Còn trong dân Y-sơ-ra-ên: Thuộc về dòng dõi Pha-rốt có Ra-mia, Y-xia, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, và Bê-na-gia. 26Thuộc dòng dõi Ê-lam có Mát-ta-nia, Xa-cha-ri, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li. 27Thuộc dòng dõi Xát-tu có Ê-li-ô-ê-nai, Ê-li-a-síp, Mát-ta-nia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa. 28Thuộc dòng dõi Bê-bai có Giô-ha-nan, Ha-na-nia, Xáp-bai, và Át-lai. 29Thuộc dòng dõi Ba-ni có Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đa-gia, Gia-sút, Sê-anh, và Ra-mốt. 30Thuộc dòng dõi Pha-hát Mô-áp có Át-na, Kê-lanh, Bê-na-gia, Ma-a-xê-gia, Mát-ta-nia, Bết-sa-lê-ên, Bin-nui, và Ma-na-se. 31Thuộc dòng dõi Ha-rim có Ê-li-ê-xe, Di-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-ma-gia, Si-mê-ôn, 32Bên-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ria. 33Thuộc dòng dõi Ha-sum có Mát-nai, Mát-ta-tha, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mai, Ma-na-se, và Si-mê-i. 34Thuộc dòng dõi Ba-ni có Ma-ê-đai, Am-ram, U-ên, 35Bê-na-gia, Bê-đia, Kê-lu-hu, 36Va-nia, Mê-rê-mốt, Ê-li-a-síp, 37Mát-ta-nia, Mát-tê-nai, Gia-a-sai, 38Ba-ni, Bin-nui, Si-mê-i, 39Sê-lê-mia, Na-than, A-đa-gia, 40Mác-nát-bai, Sa-sai, Sa-rai, 41A-xa-rên, Sê-lê-mia, Sê-ma-ria, 42Sa-lum, A-ma-ria, và Giô-sép. 43Thuộc dòng dõi Nê-bô có Giê-i-ên, Ma-ti-thia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai, Giô-ên và Bê-na-gia. 44Tất cả những người ấy đã cưới vợ ngoại đạo và một số người đã có con cái với vợ ngoại đạo đó.