6

Y-Salômôn Mdơ̆ng Sang Kơ Yêhôwa

(II KYD 3:1-14)

1Thŭn tal pă êtuh sa păn pluh leh phung ƀuôn sang Israel kbiă mơ̆ng čar Êjip, hlăm thŭn tal pă Y-Salômôn kiă kriê phung Israel, hlăm mlan Siwơ, jing mlan tal dua, ñu dơ̆ng mdơ̆ng sang Yêhôwa. 2Sang Mtao Salômôn ngă kơ Yêhôwa mâo năm pluh heh dơ̆ng, dua pluh heh găn, leh anăn tlâo pluh heh ti dlông. 3Adring ti anăp sang mâo dua pluh heh dlông, mtăp hŏng boh găn sang, leh anăn pluh heh ti anăp sang. 4Ñu ngă kơ sang anăn ƀăng bhă điêt mâo griŏ kjăp. 5Ñu ngă msĕ mơh lu kgăn jŭm dar sô̆ hŏng mtih sang, wăt mrang, leh anăn adŭ doh jăk ti lam. Leh anăn ñu ngă adŭ jŭm dar. 6Tal gŭ hin mâo êma heh boh ƀai, tal ti krah mâo năm heh boh ƀai, leh anăn tal tlâo mâo kjuh heh boh ƀai; kyuadah jŭm dar ti êngao sang ñu ngă mnơ̆ng bi êbeh ti mtih čiăng kơ êda dưi dưh tinăn amâo mŭt hlăm mtih sang ôh.
7Tơdah arăng ngă sang, arăng yua boh tâo krah leh ti anôk arăng kblang; snăn arăng amâo hmư̆ ênai kmŭt amâodah ênai jông, amâodah ênai mnơ̆ng hŏng msei ôh hlăm sang yang êjai arăng ngă ñu.
8Ƀăng bhă mŭt tal gŭ jing ti djiêu nhuă sang, leh anăn arăng đĭ hŏng êñan kơ tal krah, leh anăn mơ̆ng tal krah truh kơ tal tlâo. 9Snăn ñu ngă sang leh anăn bi leh gơ̆. Ñu ngă păng sang anăn hŏng msơ̆ng leh anăn mdhă kyâo sêdar. 10Ñu ngă kgăn sô̆ hŏng jih sang, grăp tal mâo êma heh dlông, leh anăn đuôm ti sang hŏng kyâo sêdar.
11Yêhôwa blŭ kơ Y-Salômôn, 12“Bi kơ sang ih dôk ngă anei, tơdah ih srăng êbat hlăm klei bhiăn kâo, leh anăn gưt klei kâo mtrŭn, leh anăn djă pioh jih klei kâo mtă, êbat tui hlue digơ̆, snăn kâo srăng bi sĭt klei kâo blŭ hŏng ih, klei anăn kâo blŭ leh hŏng Y-Đawit ama ih. 13Leh anăn kâo srăng dôk ti krah phung anak Israel, leh anăn amâo srăng lui ôh phung ƀuôn sang kâo Israel.”
14Snăn Y-Salômôn ngă sang leh anăn bi leh gơ̆. 15Ñu guôm mtih sang tĭng lam hŏng mdhă kyâo sêdar; dơ̆ng mơ̆ng atur ti gŭ truh kơ kdrung ti dlông ñu guôm digơ̆ tĭng lam hŏng kyâo; leh anăn ñu guôm atur sang ti gŭ hŏng mdhă kyâo čiprơ. 16 Ñu ngă dua pluh heh adŭ tĭng tluôn sang dơ̆ng mơ̆ng atur ti gŭ truh kơ kdrung ti dlông hŏng mdhă kyâo, leh anăn ñu ngă anôk anăn ti lam jing sa boh adŭ doh jăk pioh jing Adŭ Doh Jăk Hĭn. 17Sang, si tô hmô adŭ ti anăp kơ adŭ doh jăk hlăm lam, mâo pă pluh heh dơ̆ng. 18Ti kyâo sêdar hlăm lam sang arăng krah rup giêt êa leh anăn msĕ si mnga blang; jih jang hŏng kyâo sêdar sơăi, amâo ƀuh boh tâo ôh. 19Adŭ doh jăk hlăm lam, ñu ngă hlăm anôk ti lam hĭn hlăm sang, čiăng dưm tinăn hip klei bi mguôp Yêhôwa. 20Adŭ doh jăk hlăm lam mâo dua pluh heh dơ̆ng, dua pluh heh găn, leh anăn dua pluh heh ti dlông; leh anăn ñu luôm gơ̆ hŏng mah doh. Ñu ngă msĕ mơh sa boh knưl hŏng kyâo sêdar. 21Y-Salômôn luôm ti lam sang hŏng mah doh, leh anăn ñu dăng klei săng đai mah ti anăp adŭ doh jăk ti lam, leh anăn luôm gơ̆ hŏng mah. 22 Ñu luôm jih kluôm boh sang hŏng mah tơl jih sang anăn bi leh. Msĕ mơh ñu luôm hŏng mah jih kluôm knưl hlăm adŭ doh jăk ti lam.
23 Ñu ngă hlăm adŭ doh jăk ti lam dua rup čêrubim ngă hŏng kyâo ôliwơ, mâo pluh heh ti dlông. 24Êma heh boh prŏng sa pŏk siap čêrubim anăn, leh anăn êma heh boh prŏng sa pŏk siap mkăn; mâo pluh heh mơ̆ng sa êđŭk siap truh kơ êđŭk siap mkăn. 25Čhêrubim tal dua mâo pluh heh msĕ mơh. Jih dua čêrubim anăn mđơr leh anăn mâo rup msĕ. 26Boh dlông sa čêrubim mâo pluh heh, leh anăn čêrubim mkăn jing msĕ mơh. 27Ñu dưm dua čêrubim anăn hlăm anôk ti lam hĭn sang anăn. Siap diñu mblang, snăn siap sa čô sô̆ hŏng mtih anei, leh anăn siap sa čô mkăn sô̆ hŏng mtih anăn. Siap mkăn diñu bi sô̆ mbĭt ti krah sang. 28Leh anăn ñu luôm dua čêrubim anăn hŏng mah.
29Ñu krah jih jang mtih sang jŭm dar mâo rup čêrubim, rup ana đung, leh anăn rup mnga blang hlăm adŭ ti lam leh anăn ti êngao. 30Atur sang ti gŭ ñu luôm hŏng mah hlăm adŭ ti lam leh anăn ti êngao.
31Ti anôk mŭt adŭ doh jăk hlăm lam, ñu ngă ƀăng bhă hŏng ana kyâo ôliwơ, mtuêh leh anăn gơ̆ng ƀăng bhă mâo êma ƀô̆. 32Ñu guôm dua boh ƀăng bhă kyâo ôliwơ hŏng rup krah čêrubim, ana đung, leh anăn mnga blang. Ñu luôm digơ̆ hŏng mah, ñu luôm hŏng mah mơh rup dua čêrubim anăn leh anăn ana đung.
33Msĕ mơh ñu ngă mta dhar gơ̆ng ƀăng bhă hŏng kyâo ôliwơ anôk mŭt adring, 34leh anăn dua boh ƀăng bhă ngă hŏng kyâo čiprơ; sa boh ƀăng bhă mâo dua pŏk mdhă thâo kkut, leh anăn sa boh ƀăng bhă mkăn mâo dua pŏk mdhă thâo kkut. 35Ti pŏk mdhă anăn ñu krah rup čêrubim, ana đung, leh anăn mnga blang; leh anăn ñu luôm digơ̆ hŏng mah knŏng ti anôk rup krah. 36Ñu ngă wăl sang hlăm lam hŏng tlâo grông boh tâo krah leh anăn sa grông êda kyâo sêdar.
37Thŭn tal pă, mlan Siwơ, arăng mdưm tur sang yang Yêhôwa. 38Leh anăn thŭn tal pluh sa, mlan Bul, jing mlan tal sa păn, sang anăn leh hlăm jih kdrêč ñu, leh anăn tui si rup čih leh. Ñu dôk ngă sang anăn êjai kjuh thŭn.

6

Xây Cất Ðền Thờ

(2 Sử 3:1-7)

1Năm thứ bốn trăm tám mươi sau khi dân I-sơ-ra-ên ra khỏi đất Ai-cập, tức là năm thứ tư của thời Sa-lô-môn trị vì trên dân I-sơ-ra-ên, vào tháng Xi-vơ, tức tháng thứ hai, ông bắt đầu xây cất Ðền Thờ để thờ phượng CHÚA.
2Ngôi đền mà Vua Sa-lô-môn xây cất cho CHÚA dài ba mươi mét, rộng mười mét, và cao mười lăm mét. 3Tiền đình ở trước chính điện của Ðền Thờ dài mười mét, theo chiều rộng của Ðền Thờ, và rộng năm mét, nối theo chiều dài của Ðền Thờ. 4Vua cũng làm những cửa sổ có chấn song cho Ðền Thờ. 5Dọc theo tường quanh chính điện và Nơi Chí Thánh ông xây các tầng lầu với nhiều phòng chái. 6Tầng dưới rộng hai mét rưỡi, tầng giữa rộng ba mét, và tầng thứ ba rộng ba mét rưỡi. Ông cho xây các vách tường thụt vào để các cây đà của các tầng lầu có thể gác đầu trên các vách, nhưng không đâm vào vách Ðền Thờ.
7Khi xây cất đền, người ta chỉ dùng những khối đá đã được đục sẵn nơi các hầm đá, nên khi xây cất không ai nghe tiếng búa, tiếng đục đẽo, hay tiếng một dụng cụ bằng sắt nào cả.
8Lối vào tầng dưới nằm về bên phải của Ðền Thờ. Người ta làm một cầu thang hình xoắn ốc đi từ dưới lên tầng giữa, rồi từ tầng giữa đi lên tầng thứ ba. 9Vậy ông xây cất Ðền Thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy. Ông đóng trần Ðền Thờ bằng những cây đà ngang và những phiến gỗ bá hương. 10Ông cũng xây các phòng dọc theo tường Ðền Thờ. Mỗi phòng cao hai mét rưỡi. Những phòng ấy dính liền với Ðền Thờ bằng các cây đà làm bằng gỗ bá hương.
11Có lời của CHÚA phán với Sa-lô-môn, 12“Về ngôi đền mà ngươi đang xây cất, nếu ngươi đi theo các mạng lịnh Ta, thi hành các luật lệ Ta, giữ gìn mọi điều răn Ta, và vâng theo chúng, Ta sẽ làm trọn những lời Ta đã hứa với Ða-vít cha ngươi trên đời sống ngươi. 13Ta sẽ ngự giữa dân I-sơ-ra-ên và Ta sẽ không bỏ I-sơ-ra-ên dân Ta.”
14Vậy Sa-lô-môn xây cất Ðền Thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy.

Bài Trí Bên Trong Ðền Thờ

(2 Sử 3:8-14)

15Ông dùng ván bá hương lát mặt tường trong của Ðền Thờ, từ nền cho đến trần. Còn mặt nền của Ðền Thờ thì ông lát bằng ván tùng. 16Ông dùng ván bá hương ngăn mười mét phần trong cùng của Ðền Thờ, từ nền cho đến trần, thành một phòng cực thánh ở trong cùng, và gọi là Nơi Chí Thánh. 17Phần chính điện ở phía trước của Nơi Chí Thánh dài hai mươi mét. 18Tường bên trong của Ðền Thờ được lát toàn bằng ván bá hương chạm trổ những hình trái bầu và hoa nở. Chỗ nào cũng là gỗ bá hương chứ không thấy đá.
19Ông cũng chuẩn bị một Nơi Chí Thánh trong Ðền Thờ để đặt Rương Giao Ước của CHÚA tại đó. 20Nơi Chí Thánh dọc mười mét, ngang mười mét, và cao mười mét. Ông dát vàng ròng khắp Nơi Chí Thánh. Ông cũng dát vàng ròng cho bàn thờ làm bằng gỗ bá hương.
21Sa-lô-môn dát vàng ròng bên trong Ðền Thờ. Ông cho giăng một dây xích làm bằng vàng ở phía trước Nơi Chí Thánh, là nơi cũng được dát bằng vàng. 22Vậy ông dát vàng toàn phía trong Ðền Thờ đến nỗi không còn một chỗ nào là không được dát vàng. Ông cũng dát vàng bàn thờ ở trong Nơi Chí Thánh.
23Trong Nơi Chí Thánh, ông làm hai chê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, mỗi chê-rúp cao năm mét. 24Một cánh của chê-rúp dài hai mét rưỡi, cánh kia cũng dài hai mét rưỡi; vậy từ đầu cánh nầy đến đầu cánh kia là năm mét. 25Chê-rúp thứ hai cũng đo được năm mét. Cả hai chê-ru-bim đều giống nhau về kích thước lẫn hình dạng. 26Chiều cao của một chê-rúp là năm mét; chê-rúp thứ hai cũng vậy. 27Ông đặt hai chê-ru-bim với đôi cánh dang ra ấy vào Nơi Chí Thánh của Ðền Thờ. Một cánh của một chê-rúp đụng ở tường nầy, một cánh của chê-rúp kia đụng ở tường kia, hai cánh còn lại chạm vào nhau ở chính giữa Nơi Chí Thánh. 28Ông dát vàng cả hai chê-ru-bim.
29Trên tường chung quanh Ðền Thờ, ông chạm hình các chê-ru-bim, các cây cọ, và các cành hoa nở, cả Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh . 30Ông cũng dát vàng mặt nền của Ðền Thờ, cả Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh.
31Lối vào Nơi Chí Thánh, ông làm hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, gắn vào hai trụ cửa có năm cạnh. 32Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, ông chạm hình các chê-ru-bim, các cây cọ, và các cành hoa nở. Ông dát vàng hình các chê-ru-bim và các cây cọ bằng vàng cán mỏng. 33Lối vào Nơi Thánh cũng vậy, ông làm các trụ cửa có bốn cạnh bằng gỗ ô-liu. 34Ông cũng làm hai cửa bằng gỗ tùng; cửa nầy có hai cánh xoay trên bản lề, và cửa kia cũng có hai cánh xoay trên bản lề. 35Ông chạm hình các chê-ru-bim, các cây cọ, và các cành hoa nở trên các cánh cửa, rồi lấy vàng khảm vào những đường nét đã chạm.
36Ông cũng xây hàng rào để làm sân trong, trước mặt tiền của Ðền Thờ. Hàng rào ấy được xây như thế nầy: cứ ba hàng đá quý được đục đẽo mỹ thuật thì có một hàng xà ngang làm bằng gỗ bá hương.
37Năm thứ tư, vào tháng Xi-vơ, nền Ðền Thờ CHÚA được khai móng. 38Năm thứ mười một, tháng Bun tức tháng Tám, công trình xây cất Ðền Thờ được hoàn tất, đúng theo các chi tiết về kiểu mẫu và kích thước đã định. Ông mất bảy năm mới xây xong Ðền Thờ.