1

Se^kaa^li^yaa Buatc Nyei Hietc Nyungc Laauc Yaangh Nyei Sic

(Se^kaa^li^yaa 1-8 Zaang)

Se^kaa^li^yaa Heuc Baeqc Fingx Nzuonx Daaih Lorz Ziouv

1Ndaa^li^atc zoux Besie nyei hungh da'nyeic hnyangx wuov hnyangx, betv hlaax, Itc^ndo nyei fun, Mbe^le^ki^yaa nyei dorn, douc waac mienh, Se^kaa^li^yaa, duqv zipv Ziouv nyei waac gorngv,
2“Ziouv qiex jiez haic meih mbuo nyei ong-taaix. 3Weic naaiv meih oix zuqc mbuox baeqc fingx, ‘Nernh Jiex nyei Ziouv hnangv naaiv gorngv. Nernh Jiex nyei Ziouv gorngv, “Meih mbuo oix zuqc nzuonx daaih lorz yie, yie ziouc nzuonx daaih lorz meih mbuo.” Nernh Jiex nyei Ziouv hnangv naaiv nor gorngv. 4“Maiv dungx hnangv meih mbuo nyei ong-taaix. Zinh ndaangc nyei douc waac mienh zunh mbuox ninh mbuo, ‘Nernh Jiex nyei Ziouv hnangv naaiv nor gorngv, “Oix zuqc guangc meih mbuo zoux orqv nyei jauv caux meih mbuo zoux nyei waaic sic.’ Mv baac ninh mbuo maiv muangx yie, maiv kangv ei jienv yie nyei waac zoux.” Naaiv se Ziouv gorngv nyei waac. 5Meih mbuo nyei ong-taaix yiem haaix? Wuov deix douc waac mienh yietc liuz ziangh nyei fai? 6Yie longc yie nyei bou, wuov deix douc waac mienh donv nyei waac caux hatc nyei lingc mbuox meih mbuo nyei ong-taaix, mv baac ninh mbuo maiv muangx ziouc zuqc dingc zuiz.
 “Nqa'haav ninh mbuo goiv hnyouv aengx gorngv, ‘Nernh Jiex nyei Ziouv dingc hnyouv ziux yie mbuo zoux nyei jauv caux zoux nyei sic winh bun yie mbuo, ninh ziouc hnangv wuov nor zoux.’+”

Da'yietv Nyungc Laauc Yaangh Nyei Sic

Maaz Caux Geh Maaz Mienh

7Ndaa^li^atc zoux hungh da'nyeic hnyangx, ziepc yietv hlaax, se ⟨Se^mbatc hlaax,⟩ nyic ziepc feix wuov hnoi, Itc^ndo nyei fun, Mbe^le^ki^yaa nyei dorn, Se^kaa^li^yaa, duqv zipv Ziouv nyei waac gorngv,
8Lungh muonz zanc yie buatc dauh mienh geh jienv maaz-siqv, souv jienv hepc nyei horngz, faan ziqc liouh ndiangx-lomc gu'nyuoz. Yiem ninh nqa'haav nqaang maaih dauh maaz-siqv, maaih dauh maaz-yangh, maaih dauh maaz-baeqc.
9Yie naaic gaax, “Domh Gorx aac, naaiv deix se haaix nyungc?”
 Caux yie gorngv waac wuov dauh fin-mienh gorngv, “Yie oix bun meih hiuv duqv naaiv deix maaih haaix nyungc eix leiz.”
10Souv jienv faan ziqc liouh nyei ndiangx-lomc gu'nyuoz wuov dauh mienh ziouc gorngv, “Naaiv deix se Ziouv paaiv mingh youh gormx lungh ndiev.”
11Geh maaz wuov deix mbuox souv jienv faan ziqc liouh ndiangx-lomc gu'nyuoz wuov dauh, se Ziouv nyei fin-mienh, “Yie mbuo youh gormx lungh ndiev yaac buatc lungh ndiev sekv nyei, taaix-baengh nyei.”
12Ziouv nyei fin-mienh dau gorngv, “O Nernh Jiex nyei Ziouv aac, meih nouz haic Ye^lu^saa^lem Zingh caux Yu^ndaa nyei ziex norm zingh buangv cietv ziepc hnyangx mi'aqv. Meih corc maiv korv-lienh ninh mbuo ndongc haaix lauh?” 13Ziouv gorngv longx nyei, orn hnyouv nyei waac dau caux yie gorngv waac wuov dauh fin-mienh.
14Caux yie gorngv waac wuov dauh fin-mienh mbuox yie, “Meih oix zuqc zunh gorngv, ‘Nernh Jiex nyei Ziouv hnangv naaiv gorngv, “Yie za'gengh nzaeng jienv Ye^lu^saa^lem Zingh, se nzaeng ⟨Si^on.⟩ 15Yie qiex jiez! haic kuh yiem kuh nyanc wuov deix guoqv nyei mienh, weic zuqc yie qiex jiez zoqc wuov zanc, ninh mbuo hoic yie nyei baeqc fingx zuqc siouc kouv gauh camv.”+’
16“Weic naaiv Ziouv hnangv naaiv gorngv, ‘Yie oix nzuonx Ye^lu^saa^lem, oix korv-lienh naaiv norm zingh. Yie nyei biauv oix yiem naaiv liepc jiez. Yaac oix baeng ndorqc nyei hlaang ndorqc Ye^lu^saa^lem gu'nguaaic.’ Nernh Jiex nyei Ziouv hnangv naaiv gorngv.
17“Oix zuqc aengx zunh gorngv ‘Nernh Jiex nyei Ziouv hnangv naaiv gorngv, “Yie nyei norm-norm zingh aengx oix butv zoih butv zieqv buangv nzengc. Yie aengx oix orn Si^on Mienh nyei hnyouv yaac ginv nzunc Ye^lu^saa^lem Zingh.”+’+”

Da'nyeic Nyungc Laauc Yaangh Nyei Sic

Biei Norm Jorng, Biei Dauh Zaangc Mienh

18Yie aengx cau hmien mangc ziouc buatc maaih biei norm jorng. 19Yie ziouc naaic caux yie gorngv waac wuov dauh fin-mienh, “Naaiv deix jorng se haaix nyungc?”
 Ninh dau, “Naaiv se bun Yu^ndaa Mienh, I^saa^laa^en Mienh caux Ye^lu^saa^lem Zingh nyei mienh faatv nzaanx nyei jorng.”
20Ziouv aengx bun yie mangc buatc biei dauh zaangc mienh. 21Yie naaic gaax, “Naaiv deix zaangc mienh daaih zoux haaix nyungc?”
 Ziouv dau, “Naaiv deix jorng beiv ceux Yu^ndaa faatv nzaanx nzengc ziouc maiv maaih haaix dauh haih cau duqv m'nqorngv jiez wuov deix aqv. Mv baac naaiv deix zaangc mienh daaih mborqv nauv cau jiez jorng daaih ceux Yu^ndaa faatv nzaanx wuov deix guoqv.”

1

Kêu Gọi I-sơ-ra-ên Ăn Năn

1Tháng Tám, năm thứ hai của triều đại Ða-ri-út, lời của CHÚA đến với Tiên Tri Xa-cha-ri-a con của Bê-rê-ki-a, con của I-đô, rằng, 2“CHÚA rất giận tổ tiên các ngươi. 3Vậy, ngươi hãy nói với chúng, ‘CHÚA các đạo quân phán thế nầy, “Hãy trở lại với Ta,” CHÚA các đạo quân phán, “thì Ta trở lại với các ngươi,” CHÚA các đạo quân phán. 4“Ðừng giống như tổ tiên các ngươi, những người các tiên tri ngày trước đã rao báo rằng, ‘CHÚA các đạo quân phán thế nầy: Bây giờ các ngươi hãy lìa bỏ các đường lối gian ác và các việc làm gian ác của các ngươi mà trở lại.’ Nhưng chúng chẳng nghe và cũng chẳng quan tâm gì đến Ta,”’ CHÚA phán. 5“Tổ tiên các ngươi bây giờ đâu rồi? Các tiên tri nữa, chúng có sống mãi không? 6Còn những lời Ta và các luật lệ Ta mà Ta đã truyền cho các tôi tớ Ta, các tiên tri, chẳng phải chúng thảy đều ứng nghiệm trên tổ tiên các ngươi sao? Này chúng đã ăn năn và nói, ‘Những gì CHÚA các đạo quân phán về việc Ngài sẽ làm cho chúng tôi tùy theo các đường lối và các việc làm của chúng tôi, Ngài đã làm đúng như vậy.’”

Khải Tượng Thứ Nhất: Các Kỵ Mã

7Ngày hai mươi bốn, tháng Mười Một, tức tháng Sê-bát, trong năm thứ hai của triều đại Ða-ri-út, lời của CHÚA đến với Tiên Tri Xa-cha-ri-a con của Bê-rê-ki-a, con của I-đô, như sau:
8Trong ban đêm tôi thấy một khải tượng: Này, một người cỡi một con ngựa tía. Người ấy đứng giữa các cây sim trong một thung lũng hẹp. Sau lưng người ấy có các ngựa tía, ngựa nâu, và ngựa trắng. 9Tôi hỏi, “Thưa ngài, những người cỡi các ngựa nầy có ý nghĩa gì?”
 Vị thiên sứ nói với tôi và bảo tôi, “Ta sẽ tỏ cho ngươi biết những người cỡi ngựa nầy có ý nghĩa gì.”
10Người đứng giữa các cây sim trả lời và nói với tôi, “Ðây là những người CHÚA đã sai đi tới đi lui khắp thế gian.”
11Những vị ấy thưa với vị thiên sứ của CHÚA đang đứng giữa các cây sim, “Chúng tôi đã đi tới đi lui khắp thế gian, và này, cả thế gian đều yên tĩnh và an ổn.”
12Bấy giờ vị thiên sứ của CHÚA nói, “Lạy CHÚA các đạo quân, Ngài còn giận cho đến bao lâu nữa mà không thương xót Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa, những nơi đã làm Ngài giận đến bảy mươi năm rồi?”
13CHÚA đáp lời vị thiên sứ đã nói với tôi bằng những lời chan chứa tình thương và đầy an ủi. 14Bấy giờ vị thiên sứ đã nói với tôi bảo tôi, “Ngươi hãy lớn tiếng công bố rằng, ‘CHÚA các đạo quân phán: Vì yêu Giê-ru-sa-lem và Si-ôn, Ta đã nổi ghen dữ dội. 15Nhưng bây giờ Ta rất giận các nước đang được yên ổn, vì Ta chỉ giận một chút nhưng chúng đã lợi dụng biến thành thảm họa.” 16Vì vậy CHÚA phán, “Ta sẽ trở lại thăm viếng Giê-ru-sa-lem với lòng thương xót. Nhà Ta sẽ được xây lại tại đó. Thước dây sẽ được giăng ra để đo khắp Giê-ru-sa-lem cho việc tái thiết,’” CHÚA các đạo quân phán.
17“Ngươi hãy công bố thêm, ‘CHÚA các đạo quân phán thế nầy, “Các thành của Ta sẽ đầy tràn của cải. CHÚA sẽ lại an ủi Si-ôn, và Ngài sẽ tiếp tục chọn lại Giê-ru-sa-lem.”’”

Khải Tượng Thứ Nhì: Các Sừng và Các Thợ Rèn

18Bấy giờ tôi nhìn lên và thấy, này, có bốn cái sừng. 19Tôi thưa với vị thiên sứ đã nói với tôi, “Thưa ngài, các sừng nầy có ý nghĩa gì?”
 Vị thiên sứ ấy trả lời tôi, “Ðây là các sừng đã húc Giu-đa, I-sơ-ra-ên, và Giê-ru-sa-lem văng tứ tán.”
20Sau đó, CHÚA chỉ cho tôi thấy bốn người thợ rèn. 21Tôi hỏi, “Họ đến để làm gì vậy?” Vị thiên sứ ấy trả lời, “Các sừng nầy đã húc tung Giu-đa ra khắp nơi, khiến không ai ngóc đầu lên được. Nhưng các thợ rèn nầy đến để gây kinh hoàng cho chúng. Họ sẽ triệt hạ các sừng của các nước đã cất sừng lên húc tung xứ Giu-đa, khiến dân của nó phải bị tản lạc.”