3

Dũ Náq Cóq Cucốh Rup Yễng

1Vớt ki, puo Nabũ-canêt-sa ớn noau tooc muoi lám rup toâq yễng, sarỡih tapoât chít coat, la‑a tapoât coat. Án dŏq rup ki tâng ntốq tapín Dura tâng cruang Ba-bulôn. 2Chơ puo ớn dũ náq máh cũai sốt tâng dũ cruang án sốt toâq rôm parnơi, bữn neq: máh cũai sốt pưn puo, máh ayững atĩ alới, máh cũai sốt vil, máh cũai yống práq tâng cruang, máh cũai parchĩn parnai, máh cũai rasữq, cớp máh cũai sốt canŏ́h hỡ. Máh cũai sốt nâi cóq toâq pỡ ntốq noau sang rup yễng ca puo Nabũ-canêt-sa táq ki. 3Tữ cũai sốt ki toâq dũ nheq chơ, alới tayứng choâng moat rup yễng ki. 4Bữn manoaq pau casang neq: “Máh proai tễ dũ tỗp, dũ cruang, cớp dũ parnai ơi! 5Toâq anhia sâng sưong lavia, sưong khũi, sưong achúng toâr, sưong achúng cớt, sưong sacơr, cớp máh sưong crơng lampỡiq canŏ́h trantríq parnơi muoi prớh, cóq anhia pũp cucốh sang rup yễng puo Nabũ-canêt-sa khoiq ayứng ki. 6Khân cũai aléq ma tỡ bữn pũp cucốh sang, lứq noau takễl amut cũai ki chu lo ũih blữ ca hang cutâu lứq.”
7Yuaq ngkíq, toâq noau sâng sưong lampỡiq ki casang, cũai tễ dũ tỗp, dũ cruang, cớp dũ parnai, alới cucốh sang rup yễng puo Nabũ-canêt-sa ayứng ki.

Noau Cauq Pái Náq Yớu Daniel

8Bữn máh cũai Ba-bulôn toâq cauq cũai I-sarel. 9Alới pai chóq puo Nabũ-canêt-sa neq: “Sễq puo ỡt cóng tamoong dũn! 10Puo khoiq patâp dŏq chơ, toâq sâng máh sưong lampỡiq casang achỗn, dũ náq cũai cóq pũp cucốh sang rup yễng ki. 11Khân cũai aléq ma tỡ bữn pũp cucốh sang rup yễng, ki lứq noau takễl án tâng lo ũih blữ hang lứq. 12Bữn máh cũai tễ tỗp I-sarel ca anhia khoiq chóh yỗn táq ranáq tâng cruang Ba-bulôn, alới tỡ bữn trĩh santoiq anhia ớn. Cũai ki la Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô. Alới tỡ bữn cucốh yiang anhia, tỡ la pũp sang rup anhia ayứng dŏq ki.”
13Cỗ tễ ranáq nâi, puo sâng cutâu mứt lứq, cớp ớn noau dững samiang pái náq ki toâq ramóh án. 14Chơ án blớh alới neq: “Ơ Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô ơi! Lứq ma tỡ bữn, anhia tỡ bữn cucốh sang yiang cứq, cớp tỡ bữn pũp sang rup yễng cứq khoiq ayứng ki? 15Sanua nâi toâq anhia sâng sưong lavia, sưong khũi, sưong achúng toâr, sưong achúng cớt, sưong sacơr, cớp máh sưong crơng lampỡiq canŏ́h trantríq parnơi muoi prớh, cóq anhia pũp cớp cucốh sang rup ki. Khân anhia tỡ bữn cucốh sang, ki noau takễl anhia tâng lo ũih blữ sanua nâi toâp. Anhia chanchớm bữn yiang aléq têq chuai anhia tỡ?”
16Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô ta‑ỡi neq: “Cucốh puo hếq ơi! Lứq hếq tỡ têq lễc ntrớu dŏq chuai tỗ hếq bữm. 17Khân Yiang Sursĩ hếq sang yoc ễ chuai hếq yỗn vớt tễ lo ũih cớp tễ chớc anhia, ki Yiang Sursĩ lứq chuai. 18Ma khân Yiang Sursĩ tỡ bữn chuai hếq, ki hếq sễq atỡng yỗn anhia dáng, la lứq samoât hếq tỡ bữn cucốh sang máh yiang anhia, tỡ la sang rup yễng anhia khoiq ayứng dŏq.”

Noau Takễl Alới Pái Náq Tâng Lo Ũih Blữ

19Chơ puo Nabũ-canêt-sa sâng cutâu mứt lứq chóq Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô toau moat múh án cỡt cusâu. Yuaq ngkíq, án ớn noau chóq ũih tữm ễn tâng lo ki, táq yỗn hang clữi tễ nhũang tapul trỗ. 20Chơ, án ớn máh samiang bán rêng tâng tỗp tahan án toâq chŏ́q samiang pái náq ki, cớp takễl amut tâng lo ũih blữ. 21Ngkíq, tahan ki chŏ́q pái náq samiang ki dếh tampâc tâng tỗ alới, la au yáng tiah cớp au yáng clống, muoc, cớp máh crơng canŏ́h hỡ. Chơ noau takễl alới amut tâng lo ũih blữ ca cutâu lứq ki. 22Ma cỗ tễ parnai puo ớn ki, lo ki blữ rêng cớp hang lứq, toau cat dếh tahan ca ntôm takễl alới; chơ tahan ki cuchĩt nheq. 23Ma Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô satooh tâng lo ũih, dếh sarnŏ́q noau chŏ́q alới.
24Chơ Nabũ-canêt-sa yóiq toâp án yuor tayứng, cỗ sâng dớt lứq tâng mứt. Án blớh máh cũai ayững atĩ án neq: “Anhia khoiq chŏ́q cớp takễl ống pái náq cũai samiang amut tâng lo ũih hang lứq, pĩeiq tỡ?”
 Alới ta‑ỡi án neq: “Pĩeiq, puo ơi!”
25Puo blớh alới ễn neq: “Khân ngkíq, nŏ́q cứq hữm cỡt pỗn náq samiang tayáh tâng ũih ki? Ariang noau tỡ bữn chŏ́q loâng alới, cớp tỡ hữm cỡt bớc chũl ntrớu cỗ tễ ũih cat; cớp án ca pỗn ễn tâng tỗp alới, ki ariang ranễng Yiang Sursĩ.”

Puo Acláh Pái Náq Samiang

26Ngkíq, Nabũ-canêt-sa pỡq cheq ngoah lo ũih noâng blữ ki, cớp arô alới neq: “Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô ơi! Anhia ca táq ranáq Yiang Sursĩ la Yiang sốt clữi nheq tễ canŏ́h ơi! Anhia loŏh tễ ki!”
 Ngkíq, Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô loŏh.
27Máh cũai sốt pưn puo, cũai ayững atĩ alới, máh cũai sốt vil, cớp máh cũai puo dốq sarhống, nheq tữh alới toâq rôm nhêng pái náq samiang ki. Alới pái náq ki tỡ bữn bớc chũl ntrớu tễ pla ũih, sóc la tỡ bữn rachũan, tampâc la tỡ bữn cat, cớp tâng tỗ chác alới la tỡ bữn sâng hỡi khĩu phĩac ũih. 28Chơ puo pai neq: “Lứq khễn Yiang Sursĩ tỗp Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô sang. Yiang Sursĩ toâp ớn ranễng án tễ paloŏng sễng chuai máh cũai táq ranáq án cớp trĩh án. Alới tỡ bữn trĩh parnai cứq, cớp alới chĩuq pứt rangứh, yuaq tỡ ễq pũp sang yiang canŏ́h, khân tỡ cỡn Yiang Sursĩ alới.
29“Sanua cứq ễ aloŏh phễp rit neq: Khân bữn manoaq cũai aléq, lứq pai án ỡt tâng cruang ntrớu tễ tỗp aléq, tỡ la táq ntỡng parnai ntrớu, ma án ayê ra‑ac ramứh Yiang Sursĩ ca Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô sang, cóq noau cŏ́h cũai ki cỡt sa‑ữi béq, cớp cóq talốh táh nheq dống án. Yuaq tỡ bữn yiang aléq ma têq chuai ariang Yiang alới sang.”
30Chơ puo achỗn chớc yỗn Satrac, Mê-sac, cớp Abet-nacô tâng cruang Ba-bulôn.

3

Ba Bạn Của Đa-ni-ên Gặp Thử Thách

1Vua Nê-bu-cát-nết-sa truyền đúc một pho tượng vàng, cao hai mươi bảy mét, ngang hai mét bảy, và dựng tượng trong đồng bằng Đu-ra, thuộc tỉnh Ba-by-lôn. 2Vua ra lệnh triệu tập các tổng trấn, các quan tham mưu, và các tỉnh trưởng, cùng các cố vấn, các giám đốc ngân khố, các thẩm phán, các cảnh sát trưởng, và tất cả các quan chức khác trong tỉnh để cử hành lễ khánh thành pho tượng mà vua đã truyền dựng lên.
3Khi tất cả các quan chức tụ về dự lễ khánh thành đứng trước pho tượng, 4quan chủ lễ lớn tiếng thông báo: “Đức vua truyền lệnh cho mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ. 5Ngay khi các ngươi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, trống, và tất cả các nhạc khí khác thổi lên, các ngươi phải sấp mình xuống đất thờ lạy pho tượng vàng đức vua đã truyền dựng lên. 6Người nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng lập tức sẽ bị quăng vào lò lửa cháy phừng phừng.”
7Vì thế, ngay khi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, và tất cả các nhạc khí khác trổi lên, tất cả mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ đều sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng vua Nê-bu-cát-nết-sa đã truyền dựng lên.

Ba Bạn Đa-ni-ên Bị Tố Cáo

8Lúc ấy, một số người Canh-đê chụp cơ hội ra mặt tố cáo người Giu-đa. 9Họ tâu vua Nê-bu-cát-nết-sa: “Bệ hạ vạn tuế! 10Muôn tâu, bệ hạ ra lệnh mọi người khi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, trống và tất cả các loại nhạc khí khác, phải sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng; 11còn người nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng sẽ bị quăng vào lò lửa cháy phừng phừng. 12Mấy người Giu-đa được bệ hạ phong làm quản lý nha hành chánh tỉnh Ba-by-lôn là Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô đã phạm tội khi quân. Chúng không thờ các thần của bệ hạ, cũng không quỳ lạy pho tượng vàng bệ hạ cho dựng lên.”
13Bấy giờ vua Nê-bu-cát-nết-sa nổi giận, ra lệnh điệu Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô đến. Vừa khi điệu đến, 14vua tra hỏi: “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô, có phải thật sự các ngươi không thờ thần ta, cũng không quỳ lạy pho tượng vàng ta đã dựng lên không? 15Bây giờ, khi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, trống và tất cả các loại nhạc khí khác, các ngươi có sẵn sàng sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng ta truyền đúc nên không? Nếu các ngươi không chịu lạy pho tượng, các ngươi sẽ bị quăng ngay lập tức vào lò lửa cháy phừng phừng. Thế thì thần nào có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta?”
16Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô đáp: “Muôn tâu bệ hạ, chúng tôi không cần phải biện minh về vấn đề này. 17Nếu có một thần có quyền giải cứu chúng tôi, thì đó chính là Đức Chúa Trời chúng tôi đang phục vụ. Ngài có khả năng giải cứu chúng tôi khỏi lò lửa cháy phừng phừng và Ngài sẽ giải cứu chúng tôi khỏi tay bệ hạ. 18Còn nếu như Ngài không giải cứu chúng tôi, xin bệ hạ biết chắc rằng chúng tôi vẫn một mực không thờ các thần của bệ hạ, cũng không quỳ lạy pho tượng vàng bệ hạ đã cho dựng lên.” 19Đến đây, vua Nê-bu-cát-nết-sa biến sắc vì giận Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô. Vua ra lệnh đốt lò lửa nóng hơn bình thường gấp bảy lần, 20và truyền cho các binh sĩ mạnh nhất trong quân đội trói chặt Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô, quăng vào lò lửa cháy phừng phừng. 21Vậy ba người này bị trói với đầy đủ quần, áo, khăn xếp, và các thứ y phục khác trên mình, và quăng vào lò lửa đang cháy phừng phừng. 22Vì lệnh vua quá nghiêm khắc, bảo đốt lò nóng quá độ, nên luồng lửa phực lên thiêu chết các binh sĩ khi khiêng Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô quăng vào lò; 23còn ba người này, Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô, vẫn bị trói, rơi vào lò lửa cháy phừng phừng.

Ba Bạn Đa-ni-ên Được Giải Cứu

24Vua Nê-bu-cát-nết-sa bổng sửng sốt đứng phắt dậy, hỏi các quần thần: “Có phải chúng ta quăng ba người bị trói vào lò lửa hay không?” Quần thần thưa: “Muôn tâu bệ hạ, đúng như vậy.” 25Vua bảo: “Nhưng ta thấy bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa hực, không ai bị cháy cả, và hình dáng người thứ tư giống như một vị thần.” 26Rồi vua Nê-bu-cát-nết-sa tiến đến gần cửa lò đang cháy phừng phừng, gọi vọng vào: “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô, đầy tớ của Thần Tối Cao, hãy ra đây!”
 Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô liền bước ra khỏi lò lửa.
27Các tổng trấn, các quan tham mưu, các tỉnh trưởng, và các quần thần xúm lại chung quanh ba người này và nhận thấy lửa không có quyền gì trên cơ thể họ cả. Tóc trên đầu họ không sém, quần áo họ không nám, ngay cả mùi khói cũng không dính vào người họ.
28Vua Nê-bu-cát-nết-sa tuyên bố: “Ngợi khen Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, A-bết Nê-sác và A-bết Nê-gô! Ngài đã sai thiên sứ Ngài giải cứu đầy tớ Ngài, là những người tin cậy Ngài, thà bất tuân lệnh vua, hy sinh tính mạng hơn là cúng thờ quỳ lạy thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời của họ. 29Vì thế, ta ban hành nghị định này cho mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ: bất cứ ai xúc phạm đến Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô thì thân thể sẽ bị lăng trì, và nhà cửa bị tịch thu. Vì không có thần nào khác có quyền giải cứu như vậy.”
30Sau đó, vua thăng chức cho Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô trong tỉnh Ba-by-lôn.