8

Ê-sara Doc Phễp Rit Yỗn Cũai Proai Tamứng

1Tâng casâi tapul, nheq tữh alới toâq rôm parnơi pỡ mpứng dĩ vil Yaru-salem yáng coah Ngoah Toong Dỡq. Tỗp alới sễq Ê-sara, cũai tễng rit sang, ca dáng sa‑ữi tễ phễp rit Yiang Sursĩ, dững aloŏh tâm saráq Yiang Sursĩ yỗn cũai I-sarel bữn na Môi-se. 2Ngkíq Ê-sara aloŏh tâm saráq ki pỡ ntốq cũai proai ỡt rôm, bữn samiang mansễm cớp cũai póng têq sapúh tễ phễp rit ki. 3Pỡ ntốq ki án yuor tayứng yáng moat cũai clứng, chơ doc phễp rit yỗn alới tamứng, tễ tarưp toau toâq mandang toâng; dũ náq cũai tamứng samoât samơi lứq.
4Ê-sara chỗn tâng pỡng ntrỡn aluang, án tayứng tâng tangái ki. Máh cũai tayứng coah atoam án la Mati-thia, Sê-ma, A-naya, Uria, Hil-kia, cớp Masĩa; máh cũai tayứng coah avêr án la Pê-daya, Mi-sel, Mal-kia, Hasum, Hát-bada-na, Sa-chari, cớp Mê-sulam.
5Bo Ê-sara tayứng choâng moat máh cũai proai, dũ náq alới nhêng nheq chu án. Toâq án pớh pơ choâiq dũ náq alới yuor tayứng. 6Chơ Ê-sara pai neq: “Lứq khễn Yiang Sursĩ, la Ncháu ca sốt toâr lứq!”
 Cũai proai dũ náq sacỡ atĩ achỗn cớp pai muoi prớh neq: “Amen! Amen!”
 Moâm ki tỗp alới sacốh racớl cớp pũp cucốh dŏq sang toam Yiang Sursĩ.
7Chơ tỗp alới yuor tayứng muoi prớh; tỗp Lê-vi atỡng tễ phễp rit yỗn alới dáng raloaih; máh cũai Lê-vi ca atỡng, ramứh neq: Yê-sua, Bani, Sê-rabia, Yamin, Acup, Sap-bathai, Hô-dia, Masĩa, Kê-li-ta, A-saria, Yô-sabat, Hanan, cớp Pê-laya. 8Chơ tỗp alới aloŏh ngê tễ phễp rit Yiang Sursĩ, cớp atỡng yỗn cũai proai dáng raloaih lứq.
9Tữ máh cũai proai sâng raloaih lứq santoiq tễ phễp rit ki, ngkíq alới sâng pa‑át lứq tâng mứt pahỡm, chơ alới nhiam. Ma Nê-hamia, cũai sốt alới, cớp Ê-sara, cũai sốt tỗp tễng rit sang cớp dáng sa‑ữi tễ phễp rit, dếh máh cũai Lê-vi ca aloŏh ngê tễ phễp rit, alới atỡng cũai proai neq: “Tangái nâi la tangái miar khong Yiang Sursĩ anhia; ngkíq anhia chỗi tanúh tỡ la nhiam.”
10Cớp alới pai tữm neq hỡ: “Cóq anhia chu loah pỡ dống anhia, cớp cha muoi pêl bũi parnơi. Cóq anhia tampễq crơng sana cớp blŏ́ng nho yỗn cũai ca noâng tỡ yũah bữn. Tangái nâi la tangái miar; cóq anhia chiau sang yỗn Yiang Sursĩ hái. Ngkíq anhia chỗi ngua noâng. Ŏ́c bũi óh Yiang Sursĩ yỗn anhia, ŏ́c ki lứq táq yỗn mứt pahỡm anhia cỡt bán rêng loah.”
11Tỗp Lê-vi luloah pỡq chu dŏq aliam máh cũai proai, cớp pai neq: “Anhia chỗi nhiam cớp chỗi ngua, yuaq tangái nâi la tangái miar khong Yiang Sursĩ.”
12Yuaq ngkíq, dũ náq cũai proai miar chu loah pỡ dống sũ alới; chơ alới cha nguaiq bũi óh lứq, dếh tampễq máh crơng alới bữn yỗn cũai canŏ́h hỡ, cỗ alới sâng tễ santoiq noau doc yỗn alới tamứng.

Cha Bũi Tangái Chóh Nloâh

13Toâq tangái parnỡ cũai sốt tễ dũ sâu, tỗp tễng rit sang, cớp tỗp Lê-vi toâq rien phễp rit tễ Ê-sara. 14Tỗp alới bữn ramóh tâng phễp rit ca Yiang Sursĩ patâp na Môi-se cóq máh cũai proai ỡt dỡ tâng nloâh tâng casâi tapul, bo táq rit cha bũi Tangái Chóh Nloâh. 15Yuaq ngkíq, alới tĩeih atỡng cớp cơiq santoiq ki chũop vil Yaru-salem, dếh vil toâr cớp vil cớt neq: “Cóq anhia pỡq chu cuar cóh, cớp ĩt máh abễng o‑li‑vê, abễng casĩm, atah tarễc, cớp máh abễng aluang canŏ́h hỡ, chơ táq nloâh samoât khoiq chĩc dŏq tâng pơ phễp rit.”
16Chơ máh cũai proai pỡq chuaq abễng aluang, cớp dững achu táq máh nloâh tâng mpuol dống tapín, tâng nchŏh alới, tâng nchŏh Dống Sang Toâr, cớp bân ntốq dốq rôm pỡ mpứng dĩ vil cheq Ngoah Toong Dỡq, cớp cheq Ngoah Toong Ep-ra-im. 17Tỗp cũai proai ca khoiq píh chu loah tễ cruang Ba-bulôn, táq nloâh cớp ỡt. Tễ dỡi Yô-sũa con samiang Nun, toau toâq tangái ki la trỗ dâu lứq alới táq rit ki; yuaq ngkíq alới sâng bũi óh lứq. 18Cu rangái, noap tễ tangái dâu toau toâq tangái parsốt máh tangái táq rit cha bũi, tỗp alới doc tễ phễp rit Yiang Sursĩ. Alới táq rit nâi nheq tapul tangái, ma tangái tacual cỡt tangái alới toâq rôm parnơi loah dŏq táq puai samoât khoiq chĩc tâng phễp rit.

8

Đọc luật pháp trước mặt công chúng. – Giữ lễ lều tạm

1 Bấy giờ, dân sự đều nhóm hiệp như thể một người, tại phố ở trước cửa Nước. Chúng nói với E-xơ-ra là thầy thông giáo, xin người đem quyển sách luật pháp của Môi-se mà Đức Giê-hô-va đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên. 2 Ngày mồng một tháng bảy, thầy tế lễ E-xơ-ra đem luật pháp đến trước mặt hội chúng, người nam và nữ, cùng những người có thông sáng nghe hiểu được.
3 Người đứng tại phố ở trước cửa Nước, đọc trong quyển ấy từ rạng đông cho đến trưa, có mặt các người nam và nữ, cùng những kẻ có thể hiểu được. Cả dân sự lắng tai nghe đọc sách luật pháp. 4 Thầy thông giáo E-xơ-ra đứng trên một cái sạp bằng gỗ mà người ta làm nhân dịp ấy; Ma-ti-thia, Sê-ma, A-na-gia, U-ri, Hinh-kia, và Ma-a-xê-gia, đứng gần người ở bên hữu; còn bên tả người thì có Phê-đa-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia, Ha-sum, Hách-ba-đa-na, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam. 5 E-xơ-ra dở sách ra trước mặt cả dân sự, vì người đứng cao hơn chúng; khi người dở sách ra, thì dân sự đều đứng dậy. 6 E-xơ-ra ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời cao cả; cả dân sự bèn giơ tay lên, mà đáp lại rằng: A-men, A-men! rồi chúng cúi đầu, sấp mặt xuống đất mà thờ lạy Đức Giê-hô-va. 7 Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bia, Gia-min, A-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đi-gia, Ma-a-xê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ria, Giô-xa-bát, Ha-nan, Bê-la-gia, và người Lê-vi, đều giải cho dân sự hiểu luật pháp; và dân sự đứng tại chỗ mình. 8 Họ đọc rõ ràng trong sách luật pháp của Đức Chúa Trời, rồi giải nghĩa nó ra, làm cho người ta hiểu lời họ đọc.
9 Nê-hê-mi, quan tổng trấn, E-xơ-ra, thầy tế lễ và thầy thông giáo, cùng người Lê-vi mà dạy dỗ dân sự, bèn nói với cả Y-sơ-ra-ên rằng: Ngày nay là thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi; chớ để tang, cũng đừng khóc lóc. Vì cả dân sự đều khóc khi nghe đọc các lời luật pháp. 10 Nê-hê-mi nói với chúng rằng: Hãy đi ăn vật gì béo, uống đồ gì ngọt, và hãy gởi phần cho những người không có sắm sửa gì hết; vì ngày nay là thánh, biệt riêng ra cho Chúa của chúng ta. Chớ buồn thảm, vì sự vui vẻ của Đức Giê-hô-va là sức lực của các ngươi.
11 Vậy, người Lê-vi làm cho cả dân sự đều được yên ổn, mà rằng: Khá nín đi, vì ngày nay là thánh, đừng sầu thảm chi. 12 Cả dân sự bèn đi đặng ăn và uống, gởi cho những phần, cùng vui vẻ lắm; vì chúng có hiểu các lời người ta đã truyền dạy cho mình.
13 Qua ngày thứ hai, các trưởng tộc của cả dân sự, những thầy tế lễ, và người Lê-vi, đều nhóm lại bên E-xơ-ra, là người thông giáo, đặng chú ý nghe các lời của luật pháp. 14 Chúng thấy có chép trong luật pháp rằng Đức Giê-hô-va cậy Môi-se phán rằng dân Y-sơ-ra-ên phải ở trong nhà lều đương lúc lễ tháng bảy; 15 và chúng phải hô truyền trong các thành và tại Giê-ru-sa-lem nghe, rằng: Hãy đi kiếm trong núi những nhánh ô-li-ve và nhánh ô-li-ve rừng, những nhánh cây sim, những tầu lá kè, và những nhánh cây rậm, đặng làm những nhà lều, y như đã chép. 16 Dân sự bèn đi ra đem các lá ấy về, mỗi người đều làm nhà lều trên nóc nhà mình, ngoài sân mình, trong hành lang của đền Đức Chúa Trời, nơi phố của cửa Nước, và nơi phố của cửa Ép-ra-im. 17 Cả hội chúng của những kẻ bị bắt làm phu tù được trở về bèn cất những nhà lều, và ở trong đó. Từ đời Giô-suê, con trai của Nun, cho đến ngày ấy, dân Y-sơ-ra-ên chẳng có làm gì giống như vậy. Bèn có sự rất vui mừng. 18 Mỗi ngày, từ ngày đầu cho đến ngày chót, người đọc trong sách luật pháp của Đức Chúa Trời. Chúng ăn lễ bảy ngày; còn qua ngày thứ tám, có một lễ trọng thể, tùy theo luật lệ.