38

Yudah Hăng HʼTamar

1Tơdang ama ñu ăt dŏ rơngot hơning, Yudah đuaĭ hĭ mơ̆ng ƀing ayŏng adơi ñu hăng trŭn nao dŏ hrŏm hăng sa čô amăng plei Adullam anăn ñu Hirah. 2Pơ anŭn Yudah bưp ană đah kơmơi sa čô mơnuih Kanaan anăn Sua. Ñu dŏ kơ gơ̆ hăng dŏ hrŏm gơ̆; 3gơ̆ pi kian hăng hơmâo rai sa čô ană đah rơkơi laih anŭn Yudah pơanăn ană anŭn Êr. 4Gơ̆ pi kian dơ̆ng hăng hơmâo rai sa čô đah rơkơi laih anŭn gơ̆ pơanăn Ônan. 5Gơ̆ ăt hơmâo rai ană đah rơkơi pơkŏn dơ̆ng laih anŭn gơ̆ pơanăn Sêlah. Yudah dŏ ƀơi anih Khezib yơh, tơdang bơnai ñu hơmâo rai ană đah rơkơi tal klâo anŭn.
6Tơdang ană kơčoa ñu Êr prŏng tơdăm laih, Yudah hơduah bơnai kơ gơ̆; anăn đah kơmơi anŭn jing HʼTamar. 7Samơ̆ ană kơčoa Yudah anai ngă sat ƀai ƀơi anăp Yahweh; tui anŭn Yahweh pơdjai hĭ ñu.
8Yuakơ Êr aka hơmâo ană ôh, giŏng anŭn Yudah laĭ kơ Ônan, “Nao dŏ hrŏm hăng bơnai ayŏng ih bĕ hăng pơgiŏng hĭ hăng gơ̆ tơlơi grơ̆ng glăm kar hăng sa čô adơi rơkơi kiăng kơ hơmâo rai kơnung djuai kơ ayŏng ih.”
9Samơ̆ Ônan thâo krăn kơnung djuai anŭn ƀu djơ̆ kơnung djuai ñu pô ôh; tui anŭn rĭm wơ̆t ñu đih hrŏm hăng bơnai ayŏng ñu, ñu ngă hŏk hĭ ia pơjĕh ñu gah rơngiao ƀu kiăng hơmâo ană kơ ayŏng ñu ôh. 10Tơlơi ñu ngă anŭn jing sat ƀai ƀơi anăp Yahweh; tui anŭn Ñu pơdjai hĭ gơ̆ mơ̆n. 11Giŏng anŭn, Yudah laĭ kơ hơđŭ ñu HʼTamar, “Glaĭ hơdip kar hăng pô đah kơmơi kơmai bĕ amăng sang anŏ ama ih tơl ană kâo Sêlah prŏng tơdăm.” Ñu laĭ tui anŭn yuakơ ñu pơmĭn, “Gơ̆ ăt či djai hrup hăng ƀing ayŏng ñu mơ̆n.” Tui anŭn, HʼTamar glaĭ hơdip amăng sang anŏ ama gơ̆ yơh.
12Sui ƀiă mơ̆ng anŭn, bơnai Yudah, ană Sua djai hĭ. Tơdang Yudah abih laih mơ̆ng tơlơi rơngot hơning ñu, ñu laih anŭn gơyut ñu Hirah ƀing Adullam nao kơ anih Timnah; ƀing gơñu nao pơ ƀing hlak dŏ yuă blâo tơpul triu ñu. 13HʼTamar hơmư̆ arăng laĭ, “Tơhmua ih nao pơ anih Timnah kiăng ƀơ̆ng huă hrŏm hăng ƀing yuă blâo tơpul triu ñu.” 14Yuakơ HʼTamar ƀuh Sêlah prŏng tơdăm laih, samơ̆ tơhmua ñu aka brơi ñu dŏ kơ Sêlah ôh; tui anŭn HʼTamar tŏh hĭ sum ao rơngot hơning hăng čut sum ao hiam laih anŭn go̱m hĭ ƀô̆ mơta ñu pô; giŏng anŭn ñu dŏ be̱r ƀơi jơlan nao kơ anih Ênaim, jing ƀơi jơlan nao pơ anih Timnah. 15Tơdang Yudah ƀuh gơ̆, ñu pơmĭn gơ̆ jing sa čô dra rĭh răm, yuakơ gơ̆ go̱m hĭ ƀô̆ mơta gơ̆. 16Ƀu thâo krăn ôh anŭn jing hơđŭ ñu, ñu rai jĕ gơ̆ ƀơi akeng jơlan hăng laĭ, “Hơi, brơi kâo đih hrŏm hăng ih bĕ.” Gơ̆ tơña, “Hơget ih či brơi kơ kâo tơdah ih kiăng đih hăng kâo lĕ?” 17Ñu laĭ, “Kâo či mơit rai kơ ih sa drơi bơbe hiam amăng tơpul hlô mơnơ̆ng kâo.” Gơ̆ tơña, “Hơget ih či brơi kơ kâo djă̱ jăng jai kiăng kơnăl tơl ih rai song glaĭ lĕ?” 18Yudah tơña, “Hơget gơnam djă̱ jăng jai kâo či brơi kơ ih lĕ?” Gơ̆ laĭ glaĭ, “Hrĕ băk ih wơ̆t hăng rơbưn gru ih ƀơi anŭn laih anŭn gai jra ƀơi tơngan ih yơh.” Tui anŭn, ñu brơi kơ gơ̆ laih anŭn đih hrŏm hăng gơ̆, tui anŭn gơ̆ pi kian mơ̆ng Yudah yơh. 19Laih kơ HʼTamar glaĭ mơ̆ng anŭn, ñu tŏh hĭ sum ao hiam laih anŭn buh glaĭ ao rơngot hơning ñu dơ̆ng.
20Tơdang anŭn Yudah mơit rai sa drơi bơbe hiam mơ̆ng gơyut ñu Hirah ƀing Adullam kiăng kơ mă glaĭ gơnam djă̱ jăng jai ñu mơ̆ng đah kơmơi anŭn, samơ̆ gơyut ñu hơduah gơ̆ ƀu ƀuh ôh. 21Ñu tơña ƀing mơnuih dŏ hơdip pơ anŭn, “Pơpă pô đah kơmơi rĭh răm jing pô hơmâo dŏ be̱r ƀơi akeng jơlan anih Ênaim anai lĕ?” Ƀing gơñu laĭ glaĭ tui anai, “Ƀu hơmâo đah kơmơi rĭh răm ôh pơ anai.”
22Tui anŭn, ñu wơ̆t glaĭ kơ Yudah hăng laĭ, “Kâo hơduah ñu ƀu ƀuh ôh. Laih dơ̆ng, ƀing mơnuih hơdip pơ anŭn laĭ, ‘Ƀu hơmâo ôh đah kơmơi rĭh răm pơ anai.’ ” 23Giŏng anŭn, Yudah laĭ, “Brơi kơ ñu djă̱ pioh bĕ hơget ñu hơmâo laih anŭn, ƀôdah ƀu djơ̆, ƀing ta či jing hĭ tơlơi klao kơ arăng yơh. Hơnăl tuč, kâo ăt hơmâo mơit laih mơ̆n bơbe anai kơ ñu, samơ̆ ih hơduah ñu ƀu ƀuh ôh.”
24Klâo blan tơdơi kơ anŭn arăng ruai kơ Yudah, “Hơđŭ ih HʼTamar soh yơh kơ tơlơi ngă rĭh răm, hơnăl tuč ră anai ñu hlak pi kian.” Yudah laĭ, “Ba ñu tơbiă bĕ hăng čuh ñu tơl djai!” 25Tơdang arăng ba tơbiă ñu, ñu mơit hiăp kơ tơhmua ñu tui anai, “Kâo pi kian hăng pô hlơi hơmâo hơdôm gơnam anai yơh.” Ñu laĭ dơ̆ng, “Ep lăng bĕ, tơdah ih thâo krăn hrĕ băk wơ̆t hăng rơbưn gru ƀơi anŭn laih anŭn gai jra hlơi anai.” 26Yudah thâo krăn hơdôm gơnam anŭn hăng laĭ, “Ñu jing pô tơpă hơnơ̆ng hloh kơ kâo, yuakơ kâo ƀu jao ôh ñu kơ ană đah rơkơi kâo Sêlah.” Tui anŭn, arăng ƀu čuh hĭ HʼTamar ôh, samơ̆ Yudah ƀu dŏ hrŏm hăng gơ̆ dơ̆ng tah.
27Tơdang truh mông gơ̆ đih apui, hơmâo dua ană nge amăng kian gơ̆. 28Tơdang ñu hlak đih apui, sa čô amăng ƀing gơñu yơr tơbiă tơngan ñu; tui anŭn pô ƀuai mă sa arăt hrĕ mơrai mriah hăng akă ƀơi tơkuai tơngan gơ̆ hăng laĭ, “Pô anai tơbiă hlâo.” 29Samơ̆ tơdang gơ̆ añăk mŭt tơngan gơ̆, ayŏng gơ̆ tơbiă hlâo laih anŭn pô ƀuai laĭ, “Tui anŭn, ih tơlŭh tơbiă ĭh!” Tui anŭn, arăng pơanăn ñu Perez. 30Giŏng anŭn, adơi ñu, jing pô hơmâo hrĕ mơrai mriah ƀơi tơkuai tơngan ñu, tơbiă rai laih anŭn arăng pơanăn ñu Zerah.

38

Giu-đa và nàng Ta-ma, dâu mình

1 Trong lúc đó, Giu-đa lìa xa các anh em mình, đến ở cùng một người A-đu-lam, tên là Hi-ra. 2 Tại đó, Giu-đa thấy con gái của một người Ca-na-an, tên là Su-a, bèn cưới làm vợ, và ăn ở cùng nàng. 3 Nàng thọ thai, sanh được một con trai, đặt tên là Ê-rơ. 4 Nàng thọ thai nữa, sanh được một con trai, đặt tên là Ô-nan; 5 lại sanh thêm một con trai, đặt tên là Sê-la. Vả, lúc vợ sanh sản, thì Giu-đa ngụ tại Kê-xíp.
6 Giu-đa cưới cho Ê-rơ, con trưởng nam, một người vợ, tên là Ta-ma. 7 Nhưng Ê-rơ độc ác trước mặt Đức Giê-hô-va, nên Ngài giết người đi. 8 Giu-đa bèn biểu Ô-nan rằng: Con hãy lại gần vợ anh con, kết bạn cùng nàng như em chồng, đặng nối dòng dõi cho anh. 9 Ô-nan biết rằng dòng dõi nầy sẽ chẳng thuộc về mình, nên đương khi đến cùng nàng, thì làm rơi rớt xuống đất, để đừng sanh dòng dõi cho anh. 10 Nhưng điều người làm vậy không đẹp lòng Đức Giê-hô-va, nên Ngài cũng giết người luôn đi. 11 Đoạn, Giu-đa biểu Ta-ma, dâu mình, rằng: Hãy về ở góa bên nhà cha con, cho đến chừng nào Sê-la, con trai cha, sẽ trở nên khôn lớn. Vì người nói rằng: Chúng ta hãy coi chừng, e khi nó cũng chết như hai anh nó chăng. Ta-ma bèn đi về ở nhà cha mình.
12 Ngày qua tháng lại, con gái của Su-a, vợ Giu-đa, qua đời. Khi đã nguôi lòng, thì Giu-đa đi cùng bạn là Hi-ra, người A-đu-lam, lên đến nơi mấy thợ hớt lông chiên mình, tại Thim-na. 13 Người ta cho nàng Ta-ma hay điều đó mà rằng: Nầy, ông gia ngươi đi lên Thim-na đặng hớt lông chiên. 14 Nàng bèn cởi áo góa bụa mình ra lấy lúp che mặt, và bao phủ mình lại, rồi ngồi trước cửa thành Ê-na-im, bên con đường đi về Thim-na; làm vậy là vì nàng đã thấy Sê-la khôn lớn rồi, nhưng họ không gả mình cho chàng làm vợ. 15 Giu-đa thấy nàng, cho là một kỵ nữ, vì nàng che mặt, 16 bèn lại gần mà nói rằng: Hãy cho ta đến cùng nàng; vì cớ người không biết nàng là dâu mình. Nàng đáp rằng: Người sẽ cho tôi món chi đặng đi đến cùng tôi? 17 Đáp rằng: Ta sẽ gởi cho nàng một con dê con của bầy ta. Nàng hỏi: Người sẽ cho tôi một của chi làm tin, cho đến chừng nào sẽ gởi con dê? 18 Đáp rằng: Ta sẽ cho nàng của chi làm tin bây giờ? Nàng đáp: Con dấu, dây và cây gậy của người đương cầm nơi tay. Người liền cho, đi lại cùng nàng; nàng thọ thai vì người vậy. Đoạn, nàng đứng dậy mà đi, 19 cởi lúp ra và mặc quần áo góa bụa lại.
20 Giu-đa cậy bạn A-đu-lam mình đem cho con dê con đặng chuộc mấy vật tin nơi tay người đàn bà nầy: Nhưng tìm nàng chẳng thấy. 21 Bạn bèn hỏi dân tại nơi nàng ở rằng: Người kỵ nữ khi trước ở ngoài đường nơi cửa thành Ê-na-im đâu rồi? Họ đáp rằng: Ở đây chẳng có một kỵ nữ nào hết. 22 Bạn bèn trở về Giu-đa mà rằng: Tôi kiếm nàng không đặng; và dân nơi đó có nói: Ở đây chẳng có một kỵ nữ nào. 23 Giu-đa rằng: Nầy, tôi đã gởi dê con đến, mà bạn tìm chẳng thấy nàng; vậy, để cho nàng giữ lấy của tin đó, chẳng nên gây điều nhơ nhuốc cho chúng ta.
24 Cách chừng ba tháng sau, người ta có học lại cùng Giu-đa rằng: Ta-ma, dâu ngươi, đã làm kỵ nữ, và vì nông nỗi đó, nàng đã hoang thai. Giu-đa đáp: Hãy đem nó ra thiêu đi. 25 Đương khi người ta đem nàng ra, thì nàng sai đến nói cùng ông gia rằng: Xin cha hãy nhìn lại con dấu, dây và gậy nầy là của ai. Tôi thọ thai do nơi người mà có các vật nầy. 26 Giu-đa nhìn biết mấy món đó, bèn nói rằng: Nàng phải hơn ta, vì ta không đưa Sê-la, con trai ta, cho nàng. Đoạn, người không ăn ở cùng nàng nữa.
27 Đến kỳ sanh nở, nầy trong bụng nàng có thai đôi. 28 Đương lúc sanh nở, một trong hai đứa đưa tay ra trước; bà mụ bắt lấy tay buộc một sợi chỉ điều, và nói rằng: Đứa nầy ra trước. 29 Nhưng nó rút tay vào, thì đây, anh nó lại ra. Bà mụ nói rằng: Mầy tông rách dường nầy! Họ đặt tên là Phê-rết. 30 Kế em nó ra sau, là đứa nơi tay có sợi chỉ điều, và họ đặt tên là Sê-rách.