16

Yop

1Chơ Yop atỡng sĩa neq: 2“Cứq khoiq sâng chơ máh santoiq ariang nâi; santoiq anhia aliam ki toâp táq yỗn cứq cỡt túh arức achỗn. 3Anhia noâng ễ pai níc ariang nâi dũn máh léq? Nŏ́q santoiq anhia tỡ cỡt nheq noâng? 4Khân anhia cỡt ariang cứq, cớp cứq cỡt ariang anhia, ki cứq dáng tê pai dũ ŏ́c samoât anhia pai. Pĩeiq cứq tếq anhia machớng ki tê cống bữn; cớp cứq ngungứr plỡ sa‑ớl chóq anhia. 5Cứq têq táq yỗn mứt anhia cỡt bán rêng toâq santoiq tĩeih atỡng cớp aliam anhia na láih parnai canŏ́h hỡ.
6“Ma khân cứq pai aloŏh, máh santoiq ki lứq tỡ têq chuai ntrớu; cớp khân cứq tangứt, la tỡ têq rachuai ntrớu yỗn cứq sâng khaq a‑ĩ. 7Yiang Sursĩ khoiq táq yỗn bán rêng cứq pứt nheq; Ncháu khoiq táq yỗn cũai tâng dống sũ cứq cuchĩt pứt nheq. 8Án khoiq chŏ́q cứq dŏq apáh cứq la cũai lôih. Cứq cỡt oiq khỗ, hữm dếh nghang. Yuaq ngkíq, cũai canŏ́h noap cứq khoiq táq lôih. 9Ŏ́c cutâu tễ Yiang Sursĩ cỡt samoât charán háq tỗ cứq na mumoong. Án carữot canễng chóq cứq, cớp nhêng cloân chu cứq cỗ sâng ũan lứq. 10Máh cũai sieu alíh cứq. Alới ỡt lavíng dũ coah mpễr cứq; alới mumat cớp tapáh mieiq cứq hỡ. 11Yiang Sursĩ khoiq chiau cứq yỗn cũai sâuq; án chiau cứq pỡq talang atĩ cũai tachoât. 12Tâng dỡi tamoong cứq, cứq táq pỡq bũi ien lứq, ma Yiang Sursĩ éc tacong cứq, chơ sadŏ́h asễng; án toân lapóh cớp tĩn sarúq cứq hỡ. Án táq chóq cứq samoât ntốq noau dốq pán tamĩang; 13noau pán saráh chóq cứq dũ coah. Saráh ki sarloâiq amut tâng carchễl cứq, ma Yiang Sursĩ ŏ́q loâng mứt sâng sarũiq táq. Chơ dỡq mứt tễ luam cứq hoi tayŏ́q tâng cutễq. 14Án táq yỗn cứq cỡt bớc hâp lứq, samoât tahan sâng nsóq mứt toâq mut chíl.
15“Cứq tâc tampâc acrơiq dŏq táq tếc cứq tanúh cỗ sâng ngua; cứq tacu tâng phốn cutễq bân ntốq nâi la cỗ sâng pê pahỡm. 16Cứq nhiam toau moat múh cỡt cusâu áih nheq, ma ỡt mpễr cứq bữn moang ŏ́c canám. 17Ma cứq tỡ bữn táq pampla ntrớu; cứq cơi câu sễq tễ Yiang Sursĩ bữn mứt bráh o.
18“Cutễq ơi! Chỗi pul cutooq aham cứq! Chỗi yỗn sưong santoiq cứq arô sễq ŏ́c pĩeiq cỡt rangiac sâng, chơ pứt chíq loâng! 19Cứq dáng, lứq bữn manoaq tâng paloŏng ỡt tayứng táng dŏq rapai chuai cứq. 20Máh yớu cứq ca-iep cupriaq níc cứq; toâq cứq tapoang achỗn chu Yiang Sursĩ, sarliang moat cứq hoi ta‑áh. 21Cứq ễq yỗn bữn muoi noaq ỡt mpứng dĩ dŏq rasễq tễ Yiang Sursĩ yỗn cứq, la cũai ca ễ rapai chuai yớu án. 22Sanua nâi, tangái casâi cumo cứq cheq ễ nheq; cứq ntôm tayáh pỡq tâng rana ca tỡ têq píh loah noâng.

16

Gióp Quả Quyết Rằng Ông Vô Tội

1Bấy giờ Gióp trả lời và nói:
  2Tôi đã nghe quá nhiều những lời như thế;
  Các anh là những người an ủi chỉ giỏi làm khổ thêm mà thôi.
  3Các lời hư không như gió ấy không chịu dứt hay sao?
  Tôi đã nói gì động đến anh, mà anh phải dài dòng như thế?
  4Nếu các anh ở vào hoàn cảnh của tôi, tôi cũng có thể nói như các anh;
  Tôi có thể chọn những lời để đáp lại các anh, và cũng có thể lắc đầu ngao ngán về các anh như vậy.
  5Nếu là tôi, tôi sẽ dùng miệng tôi làm các anh được mạnh mẽ;
  Những lời của môi tôi sẽ làm các anh giảm bớt nỗi đau lòng.
  6Nếu tôi nói ra, nỗi khổ của tôi vẫn không nguôi ngoai;
  Nếu tôi làm thinh, tôi cũng không được vơi nhẹ chút nào.
  7Nhưng bây giờ, Ngài đã làm cho tôi thêm mệt mỏi.
  Ngài đã làm cho gia đình con tan nát, chẳng còn gì.
  8Ngài đã làm cho da con ra nhăn nheo xấu xí, để làm một chứng tích chống lại con;
  Thân thể xanh xao gầy gò của con đứng lên chống con; nó làm chứng chống lại con ngay mặt.
  9Trong cơn thịnh nộ của Ngài, Ðấng ghét tôi, đã xé nát tôi;
  Ngài nghiến răng giận dữ đối với tôi.
  Còn kẻ thù của tôi nhìn tôi với cặp mắt dữ dằn đáng sợ.
  10Chúng há mồm nhe răng như muốn ăn tươi nuốt sống tôi;
  Chúng tát vào má tôi với thái độ khinh thường;
  Chúng họp nhau thành một bọn để chống lại tôi.
  11Ðức Chúa Trời đã phó tôi cho những kẻ vô tín vô luân;
  Ngài đã trao tôi vào tay bọn gian ác khôn lường.
  12Tôi đang sống an lành, bỗng dưng Ngài đánh tôi tơi tả;
  Ngài tóm cổ tôi và nghiền nát tôi;
  Thật vậy, Ngài đã dựng tôi lên làm bia để bắn.
  13Quân xạ tiễn của Ngài vây quanh tôi;
  Các mũi tên của Ngài bắn vào tim cật tôi không thương xót;
  Ngài bắn thủng túi mật tôi, khiến mật đổ ra trên đất.
  14Ngài đập tôi tơi tả hết đợt nọ đến đợt kia;
  Ngài đánh tôi tới tấp như một dũng sĩ xông vào đánh kẻ thù.
  15Tôi phải vá vải thô vào da thịt mình để che thương tích;
  Tôi phải lủi đầu tôi vào tro bụi để nhắm mắt chịu đòn.
  16Mặt tôi sưng đỏ vì khóc than đau khổ;
  Mắt quầng thâm như sắp chết đến nơi.
  17Mặc dù tay tôi chẳng làm điều hung bạo;
  Lời cầu nguyện của tôi vốn trong trắng tinh tuyền.

  18Hỡi bụi đất, chớ vùi chôn máu ta đổ xuống!
  Hãy để cho tiếng kêu khóc của ta không dừng lại nơi nào.
  19Này, giờ đây, trên trời tôi có người làm chứng;
  Ðấng binh vực tôi đang ngự ở trên cao.
  20Các bạn tôi khinh khi nhạo báng tôi;
  Còn tôi cứ hướng về Ðức Chúa Trời mà tuôn tràn giọt lệ.
  21Ước chi có ai phân xử giữa con người và Ðức Chúa Trời,
  Như người ta phân xử giữa người nầy và người khác.
  22Vì chỉ còn vài năm ngắn ngủi nữa thôi,
  Tôi sẽ đi vào con đường không thể trở lại được.