2

Brah Yêsu Ƀư Bah Bunuyh Rvĕn

1Bar pe nar ta nây, Brah Yêsu plơ̆ sĭt đŏng ma ƀon Kapernum, jêh ri bu gĭt ma Păng gŭ tâm ngih nây. 2Khân păng tâm rƀŭn ta nây, geh âk râk bunuyh văch bêng ngih, nđâp ma panăp mpông ngih kŏ tât mâu hôm geh ntŭk gŭ ôh, Brah Yêsu nti lah nau Brah Ndu ngơi ma khân păng. 3Jêh nây geh puăn nuyh bu klâu tung njŭn leo tât ma Păng du huê bunuyh rvĕn. 4Ƀiălah, yorlah âk ir bunuyh, mâu dơi mblep lăp êp Brah Yêsu ôh, pôri khân păng plơk chor ngih tra klơ bôk Brah Yêsu, jêh nây, ta trôm nây yơh khân păng yur ntrŭnh ndrel ka mbuk bunuyh rvĕn nây bêch. 5Brah Yêsu saơ nau khân păng rnơm, jêh ri Păng lah ma nơm rvĕn nây: "Kon gâp ơi, nau tih may hŏ yô̆ an jêh." 6Ta nây, geh ƀaƀă kôranh nchih samƀŭt, jêh ri geh nau mĭn êng tâm nuih n'hâm lah: 7"Mâm ƀư bunuyh nây ngơi kơt nây? Păng ngơi sưr yơh! Mbu moh dơi yô̆ an nau tih, knŏng du huê Brah Ndu dơm yơh?" 8Brah Yêsu gĭt ro tâm nau mĭn khân păng, ŭch tâm rlăch tâm dun tâm nuih n'hâm khân păng, jêh ri păng ôp: "Mâm ƀư khân may geh nau tâm rlăch tâm nuih n'hâm tâm ban kơt nây? 9Mâm nau lah ma bunuyh rvĕn, jêng di lơn: 'Nau tih may hŏ yô̆ an jêh', mâu lah, lah: 'Dâk hom may, sŏk djôt ka mbuk may jêh ri chuat hăn?' 10Ƀiălah gay ma khân may dơi gĭt ma Kon Bunuyh geh nau dơi yô̆ an nau tih ta neh ntu." Păng n'gĭl ta bunuyh rvĕn jêh ri lah: 11"Gâp lah ma may, dâk hom, sŏk djôt ka mbuk may jêh ri sĭt ma ngih may nơm." 12Bunuyh rvĕn dâk ro, sŏk ka mbuk păng jêh ri du luh bơh panăp lĕ rngôch phung nây; pôri, lĕ rngôch khân păng hih rhâl jêh ri tâm rnê ma Brah Ndu, lah: "He mâu mâp prot saơ ôh nau nâm bu pô aơ."

Brah Yêsu Kuăl Y-Lêvi

13Brah Yêsu plơ̆ hăn ta meng kơh dak mƀŭt, jêh ri lĕ rngôch phung âk văch tâm rƀŭn jŭm Păng; jêh ri Păng nti lah ma khân păng. 14Dôl Brah Yêsu găn ta nây Păng saơ Y-Lêvi, kon Y-Alphê, păng gŭ tâm ngih riu pi. Jêh ri Păng lah ma Y-Lêvi: "Tĭng hom gâp." Pô nây, Y-Lêvi dâk jêh ri tĭng ndô̆ Păng.
15Dôl Brah Yêsu gŭ sông sa tâm ngih Y-Lêvi, geh âk phung riu pi jêh ri bunuyh tih gŭ sông sa ndrel ma Brah Yêsu, jêh ri nđâp ma phung oh mon Păng. Yorlah tâm phung nây geh lĕ, âk nơm lĕ tă tĭng jêh Brah Yêsu. 16Phung kôranh nchih samƀŭt jêng mpôl Pharisi, saơ Brah Yêsu gŭ sông sa ndrel ma phung riu pi jêh ri phung tih, khân păng lah ma phung oh mon Brah Yêsu: "Mâm ƀư Păng gŭ sông sa jêh ri nhêt ndrel ma phung riu pi jêh ri phung tih mhĭk pô nây?" 17Tơlah Brah Yêsu tăng nau nây, Păng lah ma khân păng: "Mâu di phung soih săk lăng jăn ôh ŭch ma nai dak si, ƀiălah phung ji kuet; mâu di gâp văch kuăl phung sŏng ôh, ƀiălah phung tih."

Bu Ôp Ma Nau Ât Sông Sa

18Phung oh mon Y-Yôhan jêh ri phung Pharisi ver sông sa. Phung khân păng ôp Brah Yêsu: "Mâm ƀư phung oh mon Y-Yôhan jêh ri phung Pharisi ver sông sa, ƀiălah phung oh mon may mâu ver ôh?" 19Brah Yêsu plơ̆ sĭt lah ma khân păng: "Bi phung oh nâu bu klâu mra gŭ ur, dơi lĕ khân păng ver sông sa dôl păng ăt hôm gŭ ndrel ma khân păng? Dôl bu klâu mra gŭ ur hôm gŭ ndrel ma khân păng, khân păng mâu dơi ver ôh. 20Ƀiălah nar mra tât, tơlah bu sŏk lơi bu klâu gŭ ur tă bơh khân păng, rnôk nây khân păng mra ver sông sa. 21Mâu geh du huê bunuyh jĭm bok mhe ndop đah bok ơm ôh. Lah ƀư pô nây bok mhe mra ƀư prek lơi bok ơm, jêh ri ntŭk hêk mra prek huy lơn. 22Tâm ban pô nây lĕ, mâu geh ôh bunuyh troch dak kriăk ƀâu mhe tâm nông ntâu ơm; lah ƀư pô nây, dak kriăk ƀâu mra ƀư rmŭk nông ntâu ơm, jêh ri dak kriăk ƀâu nđâp ma nông ntâu roh lĕ. Bu troch dak kriăk ƀâu mhe tâm nông ntâu mhe."

Bu Ôp Di Ma Nar Saƀat

23Geh du nar Saƀat Brah Yêsu găn prot mir ba me. Dôl hăn phung oh mon păng roih sa đeh ba me. 24Phung Pharisi lah ma Păng: "Uănh ri, mâm ƀư phung nây ƀư pô nây, bu lĕ buay jêh tâm nar Saƀat?" 25Brah Yêsu lah: "Khân may mâp uănh lĕ tâm ndrom samƀŭt moh Y-Đavit ƀư tơlah păng ji ngot kăl e, păng jêh ri phung gŭ ndrel ma păng? 26Păng lăp tâm ngih Brah Ndu rô̆ Y-Abiathar, kôranh ƀư brah toyh, jêh ri păng sa kapŭng kloh ueh, knŏng phung kôranh ƀư brah vay sa kapŭng nây, jêh ri Y-Đavit ăn nđâp ma bunuyh hăn ndrel ma păng sa đŏng?" 27Pôri, Brah Yêsu ngơi rkêch đŏng ma khân păng lah: "Bu njêng nar Saƀat prăp ma bunuyh, mâu di bunuyh prăp ma nar Saƀat ôh. 28Pô nây yơh kon bunuyh jêng kôranh nđâp ma nar Saƀat lĕ."

2

Chúa Giê-xu chữa lành người bại

1Vài ngày sau, Chúa Giê-xu trở lại thành Ca-bê-nâm, tiếng đồn loan ra là Chúa Giê-xu có mặt ở nhà. 2Dân chúng kéo lại quá đông khiến nhà chật ních, đến nỗi ngoài cửa cũng không có chỗ chen chân. Trong khi Chúa Giê-xu đang giảng dạy dân chúng về lời của Thượng Đế, 3thì có bốn người khiêng một người bị bại đến. 4Vì dân chúng tụ tập quá đông, họ không làm sao mang anh ta đến trước mặt Chúa Giê-xu được nên họ mở một khoảng trống trên mái nhà ngay chỗ Chúa Giê-xu đang nói chuyện và thòng người bại đang nằm trên cáng xuống. 5Khi thấy đức tin của họ, Ngài bảo người bại rằng, “Con ơi, tội con đã được tha rồi.”
6Mấy giáo sư luật có mặt tại đó mới nghĩ thầm rằng, 7“Ông nầy là ai mà dám ăn nói táo bạo như vậy? Ông ta nói như thể mình là Trời. Chỉ có một mình Trời mới có quyền tha tội thôi.”
8Chúa Giê-xu biết ngay ý nghĩ của họ nên Ngài hỏi, “Tại sao các ông thầm nghĩ như thế trong lòng? 9Trong hai điều nầy, điều nào dễ hơn: Một là nói với người bại rằng, ‘Tội con đã được tha,’ hai là bảo, ‘Hãy đứng dậy, cuốn chăn chiếu mà đi’? 10Nhưng tôi sẽ chứng tỏ cho các ông thấy Con Người có quyền tha tội trên đất,” nên Chúa Giê-xu nói với người bại, 11“Tôi bảo anh đứng dậy cuốn chăn chiếu đi về nhà.” 12Người bại lập tức đứng dậy, cuốn chăn chiếu đi ra trước sự chứng kiến của mọi người. Dân chúng vô cùng kinh ngạc và ngợi tôn Thượng Đế. Họ bảo nhau, “Từ trước tới giờ, chưa khi nào chúng ta thấy chuyện lạ như thế nầy!”

Lê-vi theo Chúa Giê-xu

13Chúa Giê-xu lại ra bờ hồ lần nữa, có dân chúng đi theo và Ngài dạy dỗ họ. 14Trong khi Ngài đang đi thì thấy Lê-vi, con của A-phê đang ngồi ở trạm thu thuế. Chúa Giê-xu bảo ông, “Hãy theo ta,” ông liền đứng dậy theo Ngài.
15Sau đó, Chúa Giê-xu dùng bữa tại nhà Lê-vi, có các nhân viên thu thuế, những kẻ có tội cùng các môn đệ Ngài ăn chung. Những người như thế đi theo Chúa Giê-xu. 16Khi các giáo sư luật thuộc phái Pha-ri-xi thấy Chúa Giê-xu ăn chung với những người thu thuế và kẻ có tội, họ liền hỏi các môn đệ Ngài: “Sao ông ta ăn chung với phường thu thuế và kẻ có tội như thế?”
17Chúa Giê-xu nghe vậy mới bảo họ rằng: “Người khoẻ mạnh đâu cần bác sĩ, chỉ có người bệnh mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu gọi người tốt mà gọi tội nhân.”

Môn đệ Chúa Giê-xu bị chỉ trích

18Môn đệ của Giăng và người Pha-ri-xi thường hay cữ ăn trong một thời gian. Một số người đến hỏi Chúa Giê-xu, “Tại sao môn đệ của Giăng và môn đệ của người Pha-ri-xi cữ ăn còn môn đệ của thầy thì không?”
19Chúa Giê-xu đáp, “Bạn của chú rể không cữ ăn khi chú rể đang còn ở với họ. Hễ chú rể còn ở với họ, họ không cữ ăn. 20Nhưng khi nào chú rể đi rồi thì họ mới cữ ăn.
21Không ai vá một viếng vải mới chưa bị rút vào lỗ rách của cái áo cũ vì miếng vải mới sẽ rút lại, chằng rách áo cũ. Lỗ rách sẽ càng xấu thêm. 22Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ. Rượu mới sẽ làm nứt bầu, rượu cũng mất mà bầu cũng chẳng còn. Rượu mới phải đựng trong bầu da mới.”

Chúa Giê-xu là Chúa của ngày Sa-bát

23Vào ngày Sa-bát nọ, Chúa Giê-xu đi qua cánh đồng lúa, các môn đệ Ngài vừa đi vừa bứt bông lúa ăn. 24Người Pha-ri-xi thấy thế mới hỏi, “Tại sao môn đệ của thầy làm điều trái phép trong ngày Sa-bát?”
25Chúa Giê-xu đáp, “Thế các ông chưa đọc điều Đa-vít và những bạn đồng hành làm khi bị đói sao? 26Trong thời A-bia-tha làm thầy tế lễ tối cao, Đa-vít vào lều của Thượng Đế, lấy bánh thánh ăn, loại bánh mà chỉ có thầy tế lễ mới được phép ăn. Ông ta cũng cho các bạn đồng hành ăn nữa.”
27Rồi Chúa Giê-xu bảo người Pha-ri-xi “Ngày Sa-bát được lập ra để giúp loài người; chứ loài người không phải được dựng nên để lệ thuộc ngày Sa-bát. 28Vì thế, Con Người cũng là Chúa của ngày Sa-bát.”